Thứ Tư, 25 tháng 9, 2019

GIỮ ĐƯỢC CHỮ TÍN CHO CHÍNH BẢN THÂN

Dạy trẻ thành thật, giữ chữ tín ngay từ khi còn nhỏ

Chữ "tín" ở mỗi người đã tạo nên "uy tín" của bản thân, thủy chung trước sau như một, không thay lòng đổi dạ, hứa hẹn một việc nhỏ cũng chẳng sai lời, mới gọi người biết giữ uy tín.
Chữ tín trong cuộc sống hàng ngày rất quan trọng, xưa hay nay thì sốngđời mọi người cũng cần một uy tín nhất định trong quan hệ với mọi người xung quanh. Thời xưa cái uy tín với bạn luôn được đánh giá cao, uy tín đó sẽ gây dựng được lòng tin, khi mọi người tin tưởng sẽ dễ dàng được họ giúp đỡ trong cuộc sống. Nói thì phải làm, sống trung thực với mọi người, với bản thân.
Coi trọng chữ tín, giữ chữ tín là tiêu chuẩn đạo đức mà ai cũng cần tuân thủ. Đây là một phẩm chất vô cùng tốt đẹp, là một cách thể hiện sự tôn trọng người khác, là hình ảnh đại diện của mỗi người.

Nhà văn người Đức – Thomas Mann có cô con gái rất xinh đẹp tên Elektra. Elektra là một cô bé rất thông minh, thân thiện nhưng lại không giữ chữ tín và kém thành thật.
Một hôm, Thomas Mann thấy con gái phạm lỗi, ông không hề trách mắng, mà chỉ gọi con vào thư phòng của mình và nói chuyện nghiêm túc.
Thomas Mann nghiêm khắc nói:
Con gái, con đã lớn rồi, 7 tuổi là độ tuổi có thể chịu trách nhiệm với lời nói, hành động của mình. Nhưng con xem, con đã làm những gì. Hậu quả của việc nói dối chắc trong lòng con biết rất rõ, nếu ai cũng nói dối như con, vậy thế giới này sẽ trở thành một thế giới đầy rẫy sự giả dối. Và trên đời này sẽ không tồn tại tinh thần trách nhiệm, không có sự tin tưởng, không ai biết lắng nghe nữa. Con cảm thấy cuộc sống như vậy có ý nghĩa không? Ba tin rằng con sẽ hiểu những lời ba nói và sau này sẽ không nói dối nữa”.

Nghe bố nói vậy, Elektra xấu hổ gật đầu. Từ đó về sau, cô bé nghiêm túc thay đổi thói quen xấu ấy. Sau nhiều năm, Elektra vẫn ghi nhớ rõ những lời dạy bảo chân thành của cha.   

Muốn dạy con biết giữ chữ tín, cha mẹ phải làm gương trước tiên
Ở nước ngoài, cha mẹ rất coi trọng việc dạy con giữ lời hứa và chữ tín, nhưng tại Việt Nam, điều này có phần bị lơ là. Cũng có nhiều bậc phụ huynh chú ý đến vấn đề này nhưng chưa thật sự ở mức nghiêm túc dạy dỗ. Cần phải biết rằng việc để trẻ ý thức được việc giữ lời hứa không chỉ đơn giản là những bài học của riêng một mình bé. Chính bản thân cha mẹ cũng cần phải làm gương tốt, bởi bố mẹ chính là người tiêu biểu nhất để con nhìn vào và học tập theo.

Lời nói của cha mẹ có tác động quan trọng đến việc dạy con có giữ gìn chữ tín được hay không. Nếu cha mẹ có uy tín, biết coi trọng những lời hứa của mình thì sẽ được con tin tưởng làm theo. Ngược lại, nếu cha mẹ thường xuyên lơ là lời hứa, có nói mà không có làm thì sẽ gây ra tâm lý xấu và thất vọng cho bé. Một khi chứng kiến cha mẹ hứa suông quá nhiều, nói cho vui miệng hay để làm vừa lòng ai đó, con sẽ bắt chước làm theo. Cho đến khi muốn uốn nắn con lại thì vấn đề sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều vì bé đã quen thói hoặc mất lòng tin về gia đình mình.

Khi bé làm sai, cha mẹ không nên la mắng quát nạt, như vậy bé sẽ cảm thấy tổn thương nhiều hơn là biết lỗi. Người lớn nên kiềm chế cơn giận và giải thích nhẹ nhàng cho con hiểu hành động của mình là sai, hướng bé tự nhận lỗi và hứa không tái phạm lần sau nữa. Ba mẹ cũng có thể đưa ra giao kèo và điều kiện với con, nếu con thực hiện đúng lời hứa sẽ được một phần thưởng. Đã giao kèo thì người lớn nên giữ lời với con mình, để tạo uy tín dạy con về sau.

Từ khi trẻ còn rất nhỏ, cha mẹ nên cho trẻ biết tầm quan trọng của việc giữ chữ tín, đồng thời hình thành cho trẻ những thói quen trung thực từ việc nhỏ nhất. Người Do Thái cho rằng, "thành tín, trung thực" là điều căn bản của con người trong cuộc sống cũng như trong giao tiếp hàng ngày. Một người có tài giỏi đến đâu, giàu có đến thế nào, nếu không có sự thành tín, anh ta sẽ dần dần mất đi tất cả và khó đạt được thành công.

Coi trọng chữ tín, giữ chữ tín là tiêu chuẩn đạo đức mà ai cũng cần tuân thủ. Đây cũng là một nhân tố quan trọng dẫn tới thành công. Bởi vậy nên ông cha ta mới có câu răn dạy con cháu rằng: “Một lần bất tín, vạn lần bất tin”. Khi trẻ còn nhỏ, cha mẹ hãy định hướng cho con phải có trách nhiệm với lời nói của mình. Cha mẹ có thể thông qua các phương diện sau để hình thành phẩm chất thành tín cho con:

Tôn trọng lời hứa, nói lời giữ lời

Tống Khánh Linh ngay từ khi còn nhỏ đã được giáo dục trở thành một người luôn biết giữ lời hứa. Một lần, cha mẹ bà muốn đưa cả nhà tới thăm gia đình một người bạn. Những đứa trẻ đã chuẩn bị quần áo rất tươm tất, chỉ riêng có Tống Khánh Linh vẫn đang ngồi trước cây dương cầm, không ngừng đánh đàn.
- Người mẹ gọi: “Mau đi thôi các con!”
Tống Khánh Linh miễn cưỡng đứng lên, nhưng lại nhanh chóng ngồi xuống.
- Người mẹ vội hỏi: “Con sao thế?”
- Tống Khánh Linh lo lắng nói: “Hôm nay con không thể đi cùng bố mẹ được”.
- Mẹ hỏi. “Tại sao thế?”.
- Tống Khánh Linh nói. “Bố mẹ, hôm qua con đã hẹn với Tiểu Trân rằng hôm nay bạn ấy sẽ đến nhà mình. Con hứa sẽ dạy Tiểu Trân cắm hoa”.
- Cha nói. “Cha cứ tưởng là có chuyện gì. Lần sau dạy bạn cũng được mà”.
- Tống Khánh Linh lo lắng.“Không được. Con sợ khi Tiểu Trân tới lại không có ai ở nhà”.
- Mẹ gợi ý. “Nếu không thì sau khi về con tới nhà Tiểu Trân để giải thích cũng được, xin lỗi bạn ấy, ngày khác dạy bạn ấy cắm hoa cũng không sao mà”.
- Tống Khánh Linh kiên quyết lắc đầu. “Không được đâu mẹ. Chẳng phải mẹ vẫn dạy con cần biết giữ lời hứa đó sao. Con đã nhận lời với người khác thì làm sao có thể thất hứa được”.
- "Mẹ hiểu rồi. Khánh Linh của chúng ta quả là người biết giữ lời!” Mẹ mỉm cười. “Vậy thì để Khánh Linh ở nhà vậy!”. Thế là, cha mẹ cùng các chị em khác tới nhà người bạn.
Sau khi cha mẹ trở về, vẫn thấy Khánh Linh ở nhà một mình. - Cha hỏi: “Khánh Linh, Tiểu Trân đâu rồi?”.
Khánh Linh bình thản đáp: "Tiểu Trân không đến, có thể lúc chuẩn bị đi thì lại có việc”.
- Mẹ nói: “Tiểu Trân không đến à? Vậy Khánh Linh của chúng ta đã phải ở nhà một mình rồi”.
- Tống Khánh Linh đáp: “Không đâu mẹ ạ. Mặc dù, Tiểu Trân không đến nhưng con rất vui, vì con đã giữ được lời hứa của mình”.

Giữ lời hứa là hành động thực hiện lời nói của mình với người khác. Lời hứa có thể biểu đạt trực tiếp bằng lời hoặc tự hứa trong lòng. Cho dù là bằng hình thức nào, khi đã nói ra hoặc khi đã quyết định, bạn cần tôn trọng lời hứa đó và kiên trì thực hiện đến cùng. Bởi vậy nên, giữ chữ tín là một phẩm chất vô cùng tốt đẹp, là một cách thể hiện sự tôn trọng người khác, là hình ảnh đại diện của mỗi người.

Giữ chữ tín là một phẩm chất vô cùng tốt đẹp, là điều cha mẹ cần bồi đắp cho con từ những ngày còn bé.
Bất kể chúng ta làm việc gì, trong hoàn cảnh nào thì cũng cần phải chịu trách nhiệm về những gì mình đã nói. Chúng ta cần dùng hành động để thuyết phục người khác, để họ thấy rằng những gì chúng ta làm đều là vì lợi ích của họ. Để giữ chữ tín, chúng ta có thể từ bỏ tất cả những việc khác để thực hiện lời hứa của mình.
Để bước đầu giúp con xây dựng sự thành tín trong các mối quan hệ, cha mẹ nói với con rằng, con không nên đến muộn trong cuộc hẹn. Nếu không thể đi được, con hãy thông báo trước cho đối phương để hủy cuộc hẹn. Cha mẹ hãy để con nhận thức được rằng, nếu một người nào đó không tuân thủ lời hứa, người đó sẽ không được người khác tin tưởng và không ai muốn làm bạn cùng. Cho dù làm bất cứ việc gì, nếu chỉ dựa vào năng lực bản thân thì rất khó thành công. Vì thế, thành tín chính là phẩm chất cơ bản để con người tiến tới thành công.

Làm Người phải Trung thực, không nói dối

Trung thực là luôn tôn trọng sự thật, chân lý, lẽ phải, không làm sai lệch sự thật, dám nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm.
Từ khi con còn nhỏ, cha mẹ hãy yêu cầu trẻ kể lại thành thật những chuyện xảy ra, không nói dối, không giấu giếm, để rèn luyện phẩm chất trung thực, thành tín. Không nói dối chính là bước đầu tiên xây dựng sự thành tín cho trẻ. Do vậy, việc rèn luyện đức tính thành thật cho trẻ từ nhỏ là rất quan trọng.
Từ nhỏ, cha mẹ hãy định hướng để trẻ nhận thức được tầm quan trọng của sự thành thật. Đức tính thành tín cùng với trí tuệ sẽ giúp trẻ vượt qua mọi khó khăn để đạt được vị thế đáng ngưỡng mộ trong tương lai.
Hòa mình vào cuộc sống hiện đại, thành tín vẫn luôn là phẩm chất đạo đức và chuẩn mực làm việc của người thành công. Vì tương lai của con, các bậc cha mẹ đừng quên gieo mầm thành tín để con gặt hái nhiều thành công hơn nữa trên đường đời.

"Một lần bất tín vạn lần bất tin". Việc dạy con giữ đúng lời là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết khi con còn nhỏ mà trong đó, bố mẹ đóng vai trò là người thầy tuyệt vời và tấm gương sáng nhất.
Nên để cho con hiểu, nếu con nói dối hoặc thất hứa thì mọi chuyện không hay sẽ xẩy ra trước mắt trong tức khắc... Nhưng những hậu quả tiềm tàng mà nó để lại có thể theo con mãi đến sau này.

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2019

PHƯƠNG NGỮ THỪA THIÊN HUẾ


 Image result for thổ ngữ huế
Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày vừa biết tập tành đi nghễ mấy O Đồng Khánh, vừa ngấp nga ngấp nghé muốn vào (nhưng sợ bị chưởi) nhấm nháp thử ly cà phê đen sánh của cà phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ vẫn tấp nập ra vào; và cũng vừa biết để dành tiền để mua những tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn tại nhà sách Ưng Hạ. Phong cách Huế không ít thì nhiều cũng đã phôi pha, tiếng nói thuần chất của Huế cũng không mấy khi có dịp để dùng lại cho đỡ "giớ" (nhớ), cho khỏi quên; thành ra cũng xao lãng đi nhiều. Trong cái xao lãng bỗng có ý nghĩ muốn tìm lại, noái lại tiếng noái của thời cũ rích cũ rang nhưng đằm thắm đó. Cho nên chỉ xin được ghi lại đây những gì còn nhớ, còn thương mài mại, để gọi là khơi lại chút thanh âm của những ngày xưa cũ.

Phương ngữ Huế đã đưa vào câu hò chào, hò mời là hò đối đáp, còn gọi là hò vay trả:

Nữ:
Cây chi trên rừng không lá,
Cá chi dưới biển không xương.
Trai nam nhơn đối đặng, thiếp xin kết nghĩa tào khương với cùng.

Nam:
Cây xương rồng trên rừng không lá,
Cá sứa dưới biển không xương.
Anh đà đối đặng, em phải kết nghĩa cương thường với anh.

Nam:
Thùng bánh nhiều răng em kêu thùng bánh ít?
Quả trầu đầy răng em bảo quả trầu không?
Ai xui em ăn ở hai lòng,
Nói xuôi cũng được mà nói ngược dòng cũng hay.

Nữ:
Đá không chưn, răng anh gọi là đá nhảy?
Cát không miệng, răng anh bảo cát gầm?
Ở xa không biết nên lầm,
Khoai lang xắt lát em cứ ngỡ sâm bên tàu.

Sau những câu đố, trêu chọc thử tài, dần dần phát sinh tình cảm nên cuối cùng là hát hò ân tình

Nữ xướng:
Hơ hơ hơ khoan mời bạn ta lại hò khoan.
Nam xô : Hơ hơ hơ …hơ
Nữ xướng:
Hơ.. hơ Thiếp gặp chàng như rồng mây kia mà gặp hội,
Chàng mà gặp thiếp như chim phụng hoàng mà gặp cội ngô với cành ngô.
Nam xô : Hơ hơ hơ …hơ
Nữ xướng:
Mấy lâu ni kẻ Hán người Hồ,
Bữa ni thiên tri lý ngộ, quyết phân phô cho tận tình.
Nữ:
Con sao hôm đã lặn,
Con sao mai đã mọc bên tê tề.
Anh ơi anh có điều chi phân đi nói lại cho em về kẻo khuya.
Nam:
Mình về răng được mà về,
Câu thơ chưa gởi, lời thề chưa trao.

 Image result for gái huế miền quê anh giả gạo
Phương ngữ Thừa Thiên Huế không phải chỉ đơn giản "mô tê răng rứa" như thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thơ, nhạc và văn xuôi như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người của xứ Huế; Thật ra, tiếng nói từng vùng, miền, thôn làng còn rối rắm nhức đầu, phức tạp, nhiều lắm, đa dạng và phong phú hơn nhiều. Tùy vào từng địa phương của Huế, sự thanh tao qua cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ; cũng rắc rối khó hiểu khôn lường.
Đơn cử một câu rất Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai O đang tuổi lấy chồng:
 
- “Tau noái với mi ri nì, en còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, en chộ tau phơi ló ngoài cươi, en kiêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba... en đẩn. Mi quai chướng khôn?”.

Ý muốn nói như sau: 

“Tao nói với mày như vầy, ảnh còn ở rể, vậy mà hôm kia kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào, bồng tao lên giường, rồi ảnh... Mày coi có kỳ không ?”.
 
Chữ "đẩn" hay "quất" ngoài ý nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên, còn có nghĩa như ăn:

- “Đẩn cho bưa rồi đi nghể”. (Ăn cho no rồi đi ngắm gái).

Đẩn cũng có nghĩa là đánh đòn:

- “Đẩn cho hắn một chặp!” (Đục cho hắn một hồi!).

Chữ đẩn còn được phong dao Huế ghi lại:

- "Được mùa thì chê cơm hẩm
Mất mùa thì đẩn cơm thiu"

- "Rứa thì anh có biết vụ hai đứa con ông Bảy bựa qua ngầy lộn chắc rồi lôi giau từ trong chờn ra trữa cươi đập chắc, một đứa bễ mỏ, một đứa u trốt. Mạ hắn can không được, đứng trữa cươi la làng như ”quạ quạ bẻ bắp”
bựa qua: hôm qua
lôi giau: lôi nhau
ngầy lộn: gây gổ
chắc: với nhau
chờn: cái giường
– trữa cươi: giữa sân
bể mõ: vỡ mồm, giập miệng
u trốt: u đầu

Thêm một câu ngăn ngắn gần như rặt phương ngữ của Huế, mà nếu không có người thông dịch gốc Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà đã thông cho được:

- “Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nỏ biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê ! Chừ mạ tui cúng con gà, cụ mự qua chút chò bui”.

(Thưa cậu mợ, bố con vào rừng rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con cọp, vậy mà chẳng biết sao; con cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá. Giờ mẹ con đang cúng con gà, cậu mợ qua chút xíu cho vui)

Phương ngữ ở Huế thì nhiều lắm và cũng lạ lắm, nên xin được nhẩn nha tìm lại chút gì đã mất và ôn lại những gì đang còn tồn tại.
Để cho ra câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn:

- “Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi rượn đực!” (Thứ mặt mày hốc hác mà đòi hóng trai).

O mô mà lỡ mang cái nhãn "rượn đực", chắc phải ở giá "mốt trọ" (suốt đời) hoặc chọn kiếp tha hương may ra mới kiếm được tấm dôn (chồng).
Chữ "rượn" gần đồng nghĩa với câu con ngựa Thượng Tứ, câu này cũng độc không kém. Thượng Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam, bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế. Vì thế, gọi ngựa Thượng Tứ có nghĩa bóng bẩy xa xôi rằng con đó nó "ngựa" lắm, nhưng thâm thúy hơn nhiều.

Mấy O nớ thường hay rũ nhau hát đối đáp. 

Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá,
Đò về Vỹ Dạ thẳng ngã ba Sình
Đoái nhìn sông Hương nước chảy xinh xinh,
Rứa chừ sông bao nhiêu nước
Sông bao nhiêu nước dạ em si tình nhiêu bấy nhiêu

Biết đâu là cầu Ô Thước,
Mênh mông nguyện ước dưới nước trên trờ.i
Đêm khuya ngớt tạnh mù khơi,
Khúc sông quạnh vắng có người sầu riêng.

Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nhớ thương

- “Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui này lại.!” (Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại).

Chữ "lưa" cũng còn có nghĩa là còn đó như trong hai câu trong bài ca dao Huế:

Cây đa bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó)
Con đò đã khác năm xưa tê rồi

"Này lại" (mua lại); tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương đương với chữ nhường lại, chia lại, mua lại. Chứ không dùng ở chợ búa hoặc nơi mua bán um sùm.

- "Đập chắc lỗ đầu, vại máu!" (Đánh nhau bể đầu, toé máu!)

- "Thương bọ mạ để mô? Để côi trốt!".
 
Chắc chúng ta cũng thường hay hỏi lũ con lúc chúng vừa tập nói, vừa biết tỏ tình thương đối với cha mẹ, câu này có nghĩa: “Thương bố mẹ để đâu? Để trên đầu!” Rồi đưa ngón tay chỉ chỉ, miệng cười cười, nghe hoài không biết chán.

- "Tra trắn rứa mà còn ở lỗ!" (Chững chạc, già đầu vậy mà còn ở truồng).

Ở lỗ cũng xuất hiện trong câu phương ngôn “ăn lông ở lỗ” hoặc “con gái Nam Phổ, ở lỗ trèo cau!”

- "Lên côi độn mà coi" (Lên trên núi mà xem)

Chữ "coi" về sau này đã phổ biến đến nhiều địa phương khác.

- "Mự đừng có làm đày!" (Mợ đừng có lắm lời, thày lay). 

Riêng chữ "cụ mự" thường là dùng cho cậu mợ. Người Huế ít dùng chữ cụ để chỉ người già vì đã có chữ ôn hay ông. Điển hình như cụ Phan Bội Châu với chuỗi ngày “an trí” ở Huế, dân Huế đã có tên gọi ông già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế, khi nói đến cụ Phan:

Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng

- "Chộ chưa? Nỏ chộ!" (Thấy chưa? Không thấy!)

"Nỏ" là lối phủ nhận gọn gàng pha chút giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào!

- "Hắn mô rồi? Nỏ biết!" Chữ nỏ biết ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện hắn đang ở đâu! Tục ngữ Huế:

- "Có vỏ mà nỏ có ruột".
- "Khóc lảy đảy, không biết ốt dột!" (Khóc ngon khóc lành, không biết xấu hổ!).

- "En dòm tui, tui dị òm!" (Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá!)

Chữ "òm" người Huế vẫn thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: Ngon không? Dở òm!

- "O nớ răng mà không biết hổ ngươi.!" (Cô đó sao mà không biết mắc cỡ!)

"Hổ ngươi" cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ. Cũng như "xấu hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt dột, dị và hổ ngươi" có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng.

- "Chiều hắn cho gắt, hắn được lờn!": Chiều nó cho lắm vào, nó làm tới.
- "Mời ôn mệ thời cơm": Mời ông bà dùng cơm .
- "Mệ tra rồi mệ chướng": Bà ấy già nên sinh tật.

Chữ "chướng", người Huế cũng thường dùng để chỉ mấy đấng nhóc tì khóc nhè, bướng bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách hành xử ngang như cua.

- "Ăn bụ cua cho hết đái mế": Ăn vú cua cho hết đái dầm.

Chữ "bụ" cũng dành cho người và các loài có vú khác.

- "Bụ mạ" là vú mẹ, "bọp bụ" là bóp vú .
- "Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn dễ sợ luôn!" (Sao hôm nay tao buồn quá, buồn quá trời luôn!).

Dễ sợ, với người Huế không đơn thuần ở nghĩa thấy mà ghê! hoặc khủng khiếp quá!, mà còn có nghĩa,

ví dụ: "Con nớ đẹp dễ sợ!": Con bé đó đẹp quá trời.!
- "Răng mà cú tráu rứa tê?": Sao mà cộc cằn quá vậy?
 
Chữ "cú tráu" nếu phát âm đúng với giọng Huế thì nghe nặng hơn chữ cộc cằn nhiều, có lẽ phải gom thêm mấy chữ như thô lỗ, vũ phu thì mới lột tả được hết nghĩa.

Huế nói trại :
"Nói trại" là nói sai giọng, không đúng âm theo giọng viết, nói trại đôi khi cũng dùng trong trường hợp “nói khác đi, nói cách khác”. Cách nói bị biến âm này rất phổ thông ở Huế, nhất là dân cư vùng biển. Nói trại làm cho âm thanh nặng hơn, khó hiểu hơn.

- "Con tâu tắng ăn ngoài bụi te" tức là con (trâu trắng ăn ngoài bụi tre). "Tời tong tẻo, nước tong veo": Trời trong trẻo, nước trong veo.

- Hầu hết những từ bắt đầu bằng “nh” đều được người Huế nói trại thành “gi”: già (nhà).

"Giớ già giớ vợ ở già": Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!

- Những từ bắt đầu bằng “s” thì nói trại ra thành “th”:

"Ăn thung mặc thướng": Ăn sung mặc sướng hoặc "Thầy gòn" là Sài gòn, hoặc nữa: "Noái năng thòng phẳng": nói cho sòng phẳng, rõ ràng.

- Lối phát âm của người Huế không xác định được âm cuối là “n” hay “ng”:
Con thằng lằng chép miệng thở thang!: Con thằn lằn chép miệng thở than!

- Những chữ có âm “o” thường nói trại ra “oa”: "Xa voài voại, noái khôn tới, với khôn được, ngó khôn chộ": Xa vòi vọi, nói không tới, với không được, nhìn không thấy!
Hoặc nữa: "Đi coai boái, thầy boái noái đi coai cái voài voai" Đi coi bói, thầy bói nói đi coi cái vòi voi.

- Những chữ có âm “ô”, người Huế thường nói trại thành âm “u”: "Thúi trong thúi ra": Thối từ trong ra ngoài. "Túi lửa tắt đèn": Tối lửa tắt đèn.

- "Nậy rồi mà mũi rãi thò lò!": Lớn đầu mà mũi rãi lòng thòng! Chữ "thò lò" cũng đã góp mặt trong ca dao Huế:
 
Học trò thò lò mũi xanh
Cầm cái bánh đúc chạy quanh nhà thầy!

- "Vô rú mà đốn săng": Vào rừng mà đẵn gỗ.
Săng cũng đã góp mặt trong mấy câu hò giã gạo với lối đối đáp rất “văn hóa” của Huế:
Bên nữ:
Lẻ củi săng chẻ ra văng vỏ
Bỏ vô lửa đỏ than lại thành than
Trai nam nhân chàng mà đối đặng
Thiếp xin kết nghĩa tào khang trọn đời

Nghĩa: Cây củi gỗ chẻ ra văng (Văn) vỏ (Võ), thảy vô lửa đỏ thì thành than.

Bên Nam:
Tâu ăn giữa vạc ló lỗ
Đã ngụy chưa tề!
Nam nhân chàng đã đối đặng
Thiếp đã chịu theo chàng hay chưa?

Nghĩa: Con Tâu (Trâu) ăn giữa vạt ló (Lúa) lỗ (Trổ), sao kỳ quá vậy? Ý ư, cũng điển tích như ai: Trâu, Lỗ, Ngụy Tề là bốn nước thời Xuân thu Chiến Quốc cũng ở bên Tàu luôn.

- "En trên rầm thượng bổ xuống, nằm ngay đơ cán cuốc, phải địu đi nhà thương!": Anh ấy té trên rầm thượng té xuống, nằm cứng như cán cuốc, phải bồng, cõng đi nhà thương!

"Rầm thượng" là gác lửng, hay kho chứa bên dưới mái nhà ở Huế, rầm thượng không phải là chỗ ngủ nghỉ mà là nơi chứa những đồ gia dụng đáng giá nhưng phải cỡ nhỏ, vì không có lối lên. Muốn lên rầm thượng, phải bắc thang; rầm
thượng để cất giữ những đồ cổ vừa phải, không qúy lắm. Còn nếu qúy nữa thì bỏ vào rương xe, một thứ tủ thấp đóng bằng gỗ thật dày, có nắp đậy, có luôn 4 bánh xe để đẩy vì khiêng không nổi, nặng quá mà! Mặt bằng của rương xe là cái đi-văng, tối tối cứ trải chiếu nằm ngủ trên đó là khỏi lo trộm đạo

- "Nước mắt chặm hoài không khô, răng khổ ri nì trời!": Nước mắt lau, thấm hoài không khô, sao khổ vậy nè trời.!

Chữ "chặm" cũng đã lãng đãng trong mấy câu hò giã gạo, mà vì não nùng ai oán quá, nghe hò xong e phải bỏ chày luôn:

Hai hàng nước mắt như mưa
Cái khăn lau không ráo
Cái áo chặm không khô
Công anh đổ xuống ao hồ
Quì thưa bẩm dạ thuở mô đến chừ
!

- "Mặt mày chạu bạu, ai chịu cho thấu!": Mặt mày một đống, ai chịu cho nổi!

Chữ "thấu" cũng có nghĩa là tới: "Kêu tời không thấu": Kêu không tới trời; "Vô thấu trong Thầy gòn": Vô tuốt trong Sài gòn. "Mả cha cái thằng vô hậu": Tiên sư cái thằng đoảng

- "Ăn tầu cơi thiếc": Ăn trầu (để) trong khay thiếc, quả bằng thiếc. 

Cái "cơi thiếc" cũng đã đi vào tục ngữ Huế: Uống nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc.

“Mả cha mi” là tiếng chửi, lời nhiếc mắng rất thông dụng ở Huế, đồng nghĩa với “mồ cha mày”. Lối chửi này ít thông dụng ở những địa phương khác.

- "Đi xe hay đi chưn xuống rứa?": Đi xe hay đi bộ xuống đây vậy?

- "Túi thùi thui, có chộ chi mô!": Tối quá, không thấy gì hết!
- "Rạt gáo rồi mà còn làm le làm gió!": Cạn túi rồi mà còn làm, làm sang!
- "Ăn đoại cơm hến, uống đoại nước chè": Ăn tô cơm hến, uống bát nước chè (xanh).

Tục ngữ Huế: "Ăn lưng đoại, làm đoại lưng" (làm muốn gãy lưng).

Cơm hến, chẳng có chi cầu kỳ, nhưng nhiều mùi vị với lưng bát cơm nguội, rau sống, thân chuối non, rau thơm, xắt nhuyễn, nước luộc hến chan vô, cho chút xíu ruốc, bỏ chút ít hến xào, thêm vài trái ớt, đúng với cái ít ỏi của Huế.

- "Bữa ni đi kéo ghế": Hôm nay đi ăn nhà hàng.

Người Huế, nhất là ở thôn quê, thường dọn cơm trên phản, trên tấm ngựa. Không dọn trên bàn nên khỏi có cái vụ kéo cái ghế mà ngồi vào bàn. Vì thế, mỗi khi được dịp đi ăn ở quán, ở nhà hàng thì gọi là đi kéo ghế.

Huế làm đày làm láo, người Huế, nhất là mấy o, mấy mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa, ưa đa sự đa lự, ưa làm đày làm láo, tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói sự, nói dông nói dài. Thêm vào đó, phải nói cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan thì “tụng” mới phê!
Cái phong cách noái lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một cách nhấn mạnh, vừa có vẻ dạy đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn, thâm thúy hơn nữa.
Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn quá, lu bu lắm.

Người Huế ít khi dùng chữ "lắm" hay chữ "quá" mà dùng điệp ngữ: "Cái con nớ, lanh cha lanh chanh"! 
Mấy mụ o giọn (nhọn) mồm tức mấy bà chị hay em chồng, mỏng mép của Huế vẫn đôi khi chê em dâu: "Răng mà hắn vô phép vô tắc rứa hè!": Sao mà nó vô phép quá vậy!

Về màu sắc, người Huế thường có lối nói điệp ngữ để nhấn mạnh: xanh lè lè, đỏ lòm lòm, đen thùi lùi, vàng khè khè, tím giắt giắt (tím ngắt).

Bởi, "đồ cà rịch cà tang rứa mà đoài làm giôn": Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà đòi làm chồng.

Còn nữa, để than trách ông trời sao mưa lâu quá, mấy o ngồi chỏ hỏ trong nhà dòm ra, chép miệng than dài than ngắn: "Mưa chi mưa mưa thúi đất thúi đai".

Một bà mẹ tụng cô con gái, một bà chị cả mô-ran cô em thứ mà nghe cứ như là đang đọc một bài đồng giao với vần điệu, trầm bổng cũng là một trong những sinh hoạt dưới mái gia đình:

- "Mi phải suy đi nghĩ lại cho kỹ! Mi coi, là con gái con lứa, đừng có đụng chăng hay chớ, cũng đừng lật đa lật đật, cũng đừng có mặt sa mày sỉa. Bọ mạ thì quần ống cao ống thấp, tất ba tất bật để nuôi mình. Tau thấy mi rứa, tau cũng rầu thúi ruột thúi gan!"

Cái thông điệp cho thằng em trai thì:
- "Năm tể năm tê, mi còn lẩm đa lẩm đẩm, mũi rãi thò lò, chừ mi nậy rồi, phải biết ăn biết noái, biết goái biết mở, vô khuôn vô phép. Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên vợ nên chồng, làm răng mi bông lông ba la hoài như cái đồ trôi sông lạc chợ cho được".

Mấy ôn, khi giáo huấn con cháu, vẫn thường trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm thêm cho ý tưởng của mình:
- "Đó, mi thấy đó. Ai ơi chớ phụ đèn chai, thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn. Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên rá, được cá quên nơm; thì mi lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ!