Thứ Hai, 30 tháng 7, 2018

BUỔI BÌNH MINH


https://baomai.blogspot.com/

Mặt trời mọc là dấu hiệu cho thấy một ngày mới sắp bắt đầu. Một buổi sáng tĩnh mịch trên biển ngắm mặt trời mọc là mơ ước của rất nhiều người. Cảnh bình minh đẹp nên thơ này khiến chúng ta có cảm giác bình yên, nhẹ nhàng hơn sau những bộn bề cuộc sống cũng như tràn đầy năng lực để bắt đầu một ngày mới.
Bải biển đã đẹp,nhưng trong ánh bình minh còn tinh khôi và tuyệt vời hơn cả. Bầu trời và biển cả cùng khoác lên lớp áo sắc màu rực rỡ, cả khoảng không gian từ từ chuyển mình sáng bừng.
Từ xưa tới nay, mặt trời luôn mang ý nghĩa quan trọng trong nền văn minh nhân loại. Mặt trời không chỉ là sự sống mà còn truyền cảm hứng cho cuộc sống. Khi chiêm ngưỡng những khoảnh khắc đẹp lỗng lẫy này, dường như chúng ta có thể cảm nhận được hơi ấm của mặt trời cũng như chạm tay vào những tia nắng lung linh. Bình minh dù ở bất cứ nơi đâu cũng luôn mang lại thật nhiều cảm xúc, bầu không khí trong lành và những tia nắng ban mai dịu dàng đem đến cho mỗi người nguồn năng lượng, ngập tràn sức sống mơi. Vì thế, khi dành thời gian cho kỳ nghỉ ở những bải biển đẹp, chúng ta nên dấy sớm từ 4:30 - 5:30 sáng để thưởng thức vẻ đẹp khi mặt trời mọc và hít thở không khí thật trong lành, dịu mát, đồng thời cảm nhận những cơn gió mang đầy hương vị mằn mặn và se lạnh từ hơi nước  của biển khơi.



BÌNH MINH VỚI BIỂN

Dang tay gom ánh bình Minh
Ngỡ như ôm trọn người Tình yêu Thương
Thế rồi, hình ảnh vấn Vương?
Một tia nắng lóa cuối Phương trời Hồng


Em về thu chuyển sang Đông
Gửi hồn ra biển trải Lòng ngàn Khơi
Bao la trời biển trùng Khơi
Nắng hôn suối tóc, nhạt Rồi môi Em


Anh về với biển cùng Em!
Yêu thương ta tặng môi Mềm nụ Hôn
Gần anh tan hết nỗi Buồn
Vắng anh em giấu dỗi Hờn vào Đâu.?


Lần sau, ta hẹn gặp Nhau
Ghi hình biển thắm, pha Màu bình Minh
Đẹp thay tạo hóa tặng Mình
Hoàng hôn buồn lặng bình Minh rạng ngời.







VẦNG THÁI DƯƠNG

Mặt trời tựa ánh hào Quang
Nhô trên mặt biển xóa Tan bóng Mờ
Cao dần tạo dáng nên Thơ
Một vùng sáng lóe ngẩn Ngơ chốn Nào!

Chị Hằng chạy trốn cùng Sao
Để cho ánh sáng tiêu Giao cuối Trời
Thuyền buồm giương cánh xa Khơi
Mải mê rong ruổi một Trời tự do

Vần dương tròn giống chữ O
Tỏa tia nắng ấm xuống Cho mọi Người
Rộn ràng tiếng trẻ vui Cười
Nô đùa trên cát sóng Lười đẩy Đưa

Bình minh trên biển...tuyệt Chưa
Trông như cô gái thẹn Thùa mới Yêu
Má hồng điểm dáng yêu Kiều
Làm cho bao kẻ liêu Xiêu vì Nàng

Rạng đông trời biển dịu Dàng
Ta yêu biển cả yêu Hàng dừa Xanh
Biển tung bọt sóng long Lanh
Dịu êm làn gió ngọt Lành..biển ru.








ÁNH VÀNG BÌNH MINH

Bình minh tỏa sáng ánh Vàng
Vầng mây lởn vởn xanh Vàng thẩn Thơ
Giải xanh một khoảng xa Mờ
Mây trời lộng gió ởm Ờ thoáng Bay

Biển yên gợn sóng nhẹ Lay
Ôm bờ cát trắng gom Đầy miên Man
Tô lên mặt biển sắc Vàng
Chênh vênh sóng vỗ mênh Mang sáng Ngời

Trời cao biển rộng chơi Vơi
Gió vờn sóng biển ....chân Trời mờ Xa
Với bao đợt sóng hiền Hòa
Ôm bờ biển lặng mặn Mà yêu Thương

Đến đây ngắm biển mờ Sương
Bình minh trên biển vấn Vương sắc ..Vàng
Nâng niu tia nắng chứa Chan
Lắng nghe sóng vỗ muôn Vàn nhớ thương.











Có lẽ sau khi ngắm nhìn những hình ảnh mặt trời mọc tuyệt đẹp này, chúng ta sẽ phải thốt lên trước vẻ đẹp tuyệt vời của tạo hóa. Những hình ảnh đẹp về thiên nhiên khiến chúng ta thoải mái sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi. Nếu hoàn cảnh cho phép, ta nên dành thời gian để tự mình tìm đến những cảm giác lý thú tuyệt vời nầy...

Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2018

THIẾU ĐÀN BÀ TRÊN ĐỜI


Nếu thế giới này thiếu các BÀ,
Khác chi vườn cảnh thiếu ngàn HOA
Một màu ảm đạm thê lương sẽ
Phủ khắp nơi nơi, cả mọi NHÀ.
Nếu cuộc đời này thiếu phụ nữ,
Hãy khoan bỏ Rượu* với chừa TRÀ*
Lăng nhăng cũng ráng mà ôm lấy
Vì có còn đâu khoản thứ BA*.!


Nếu thế giới này thiếu quý Bà,
Anh hùng hào kiệt, trẻ hay GIÀ,
Không người nuôi dưỡng niềm hưng phấn
Thì sẽ tiêu tùng như bóng MA.
Thế giới ngày nay không có mợ,
Cơm canh nóng sốt lấy đâu RA?
Quanh năm mì gói làm sao sống?
Rác rưởi ngập lên tận mái NHÀ.!


Nếu thế giới này thiếu quí BÀ
Khéo khôn, an ủi kiếm đâu RA?
Mỗi lần cố gắng chàng tu sửa,
Đinh đóng vào tay, ai suýt SOA?
Nếu thế giới này bà biến mất,
Làm sao có chỗ ổng ba HOA
Khoe mình tán gái rất điêu luyện
Toàn những gái xinh Nhạn phải SA?


Nếu thế giới này chẳng có BÀ,
Loan phòng nào khác bãi tha MA
Đêm trường hun hút, chàng điên loạn
Bức tóc gải đầu lại kêu LA
Thế giới hôm nay bà biến mất,
Lấy đâu thơ nhạc để thăng HOA
Niềm thương nỗi nhớ trong tim óc,
Đan kết tình gần với chốn XA.!


Nếu thế giới này lại mất BÀ
Mỗi khi nóng giận nhớ không RA.!
Lấy ai trút bỏ bầu tâm sự
Thật quá phũ phàng chỉ có TA
Thế giới cỏi trần thiếu nữ giới,
Hổng ai là mẹ, chẳng ai CHA
Cùng nhau tuyệt tích nơi trần thế
Lịch sử nghìn năm vụt xóa NHÒA.


Nếu thế giới này vắng bóng BÀ
Mấy ông hiếu chiến hay ôn HÒA
Sẽ cùng "đấm ngực" mà than thở:
"Lỗi tại" nơi tôi với mấy BÀ
Dương thế xô bồ bà biến mất
Bây giờ "bài học" mới tìm RA
Khôn liền trở lại chốn ngày cũ
Lập lại sắc son luôn thứ THA
                

                  

THIẾU VẤNG BÀ.! MỚI HIỂU RA...





Hình ảnh có liên quan

Đâu còn hưng phấn để xem HOA
Khuya tối chiều trưa bởi việc NHÀ
Sẽ phải lo toan hết mọi chuyện.
Nếu mai tôi phải thiếu bóng BÀ
Ai làm ăn sáng trưa chiều tối
Nấu nước cho sôi pha ấm TRÀ
Tôi phải tự làm cho hết thảy
Để khỏi phiền con .. lo lắng BA.

Mai mốt còn tôi nhưng thiếu BÀ
Thế rồi, tôi biết phận tôi GIÀ
Cho dù cuộc sống đầy hương phấn
Tôi chẳng quan tâm luôn tránh XA
Đã thế một mai bà vắng bóng
Đâu còn đi chợ cùng hai TA
Phần tôi đơn chiếc đời cô quạnh
Không có bà chung, về lối NHÀ.

Nếu đến một mai tôi thiếu BÀ
Lúc trời ửng sáng giọt sương SA
Còn ai pha giúp cà phê sữa
Muì thoảng hương tình, tôi xuýt XOA.
Rồi thế thiếu bà trong cuộc sống
Vườn sau ngõ trước chẳng còn HOA
Tràn đầy cỏ dại không như trước
Ảm đạm tiêu điều như bóng MA

Tôi nhớ mỗi lần khi chuyển MƯA
Tiếng gầm sấm chớp nghĩ về BÀ
Mỗi khi đêm xuống, tôi đi vắng
Lo lắng hết vào lại bước RA.!
Nếu đến một ngày bà biến mất
Còn ai để nói chuyện văn HOA
Để cùng khai mở thêm tâm trí
Giữ chút hương lòng khi cách XA.

Sâu thẵm tâm hồn của chúng TA
Bà đi thiếu mẹ chỉ còn CHA
Còn tôi đơn lẻ trên trần thế
Luống mãi yêu thương chẳng nhạt NHÒA.
Nếu đến, ngày nao bà tách bến
Ai đâu.! còn nữa để làm HÒA
Còn ai đâu để, nghe than thở
Giờ thiếu bóng bà, tôi hiểu RA.

 Hình ảnh có liên quan

Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2018

TẦU CỘNG NGUỒN GỐC CỦA MỌI HIỂM HỌA ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI

             Kết quả hình ảnh cho TẦU CỘNG NGUỒN GỐC CỦA MỌI HIỂM HỌA ĐỐI VỚI NHÂN LOẠ

Đại Họa Diệt Chủng.
Mấy năm gần đây người ta tổ chức những hội nghị quốc tế bàn về vấn đề bảo vệ động vật hoang dã, người ta lo ngại cho một số động vật sẽ bị diệt chủng. Điều đó tốt, nhưng còn nhiều dân tộc đang bị diệt chủng thì sao? Và chúng ta cũng thấy mỗi khi có dịch cúm gia cầm làm chết vài trăm người là các cá nhân, các hội đoàn, các nhà cầm quyền ở nhiều nước hoảng sợ hô hoán lên… còn một thứ đại dịch đã và đang hủy diệt hàng trăm triệu con người, thậm chí cả một dân tộc thì họ lại im thin thít. Thứ đại dịch nguy hiểm ấy, ai cũng biết, cũng thấy: Đó là Tầu Cộng. 
Nếu có đủ thiện tâm, tri thức để nhìn nhận rằng: Tầu Cộng đích thực là kẻ thù nguy hiểm nhất của các dân tộc? Nếu thực sự muốn làm điều gì tốt lành hơn cho nhân loại, mong muốn có một thế giới an bình tràn đầy ánh sáng, chúng ta hãy chống lại bọn quỷ đỏ Bắc Kinh. Chúng chính là một thứ đại dịch đáng lo ngại nhất của nhân loại. Đây chính là lời kêu gọi thiết tha và còn cả hàng trăm ngàn lời ở khắp nơi trên thế giới đã cảnh tỉnh chúng ta rằng: Tầu Cộng là kẻ thù nguy hiểm nhất của loài người. 
– Không có Tầu Cộng, không có chiến tranh Việt Nam. 
– Không có Tầu Cộng, không có họa diệt chủng trên đất nước Chùa Tháp. 
– Không có Tầu Cộng, không có đại họa Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) ở miền Bắc nước ta. 
– Không có Tầu Cộng, không có thảm kịch Tây Tạng.
– Không có Tầu Cộng, nửa nước Mông Cổ không bị sát nhập vào nước Tầu. 
– Không có Tầu Cộng, chế độ quái gở Bắc Hàn đã sụp đổ từ lâu.
Chúng là kẻ thù sinh tử của các dân tộc Á Đông. Với chính sách đồng hóa và diệt chủng. Với Tầu Cộng hiện nay, những vùng đất được coi là quê hương của người Mông Cổ (khu tự trị Nội Mông), một vùng đất rộng lớn bằng một phần mười nước Tầu, gồm 6 triệu dân Mông Cổ trong vài thập niên qua khoảng trên 30 triệu người Hán đến lập nghiệp ở đây, dân gốc Mông cổ bị đẩy ra ngoài lề, khi dân số của nước Mông Cổ bên cạnh chỉ có 3 triệu người. Nội-Ngoại Mông đều là con cháu của Thành Cát Tư Hãn vang bóng một thời. Họ có nền văn hóa riêng, nhưng hiện nay văn hóa đó đang bị mai một, không còn mấy người Mông trong khu tự trị nói được tiếng mẹ đẻ. Những vùng đất được coi là quê hương của người Tây Tạng rộng gấp 8 lần nước Pháp? Và các vị có biết tại Tầu Cộng còn có những vùng đất được coi là quê hương của người Muslim, rộng tương đương bằng 5 lần nước Pháp, hoặc 8 lần nước Việt Nam? Một dải đất gọi là Ninh Hạ với diện tích khoảng 66,400 km2 , chưa bằng 1% diện tích Hoa Lục. Nhưng nếu đem so sánh với các quốc gia khác, thì vùng đất này lại rộng hơn hai nước Bỉ và Hòa Lan nhập lại. Các vùng đất mênh mông mà Tầu Cộng vừa ăn tươi nuốt sống của đất nước Tây Tạng vào năm 1950, khi quân của Mao hừng hực sát khí tràn vào cưỡng chiếm một quốc gia hoàn toàn độc lập, có chủ quyền như Tây Tạng, cũng như người Duy Ngô Nhĩ (Uyghur) để sáp nhập vào nước CHDCNDTH (của Mao Trạch Đông) thì tỷ lệ người Hán chưa đến 1% ở Tân Cương của người Hồi xấp xỉ 3%. Vậy mà chỉ trong một thời gian 60 năm cai trị áp đặt chính sách Hán hóa trên lãnh thổ quốc gia Tây Tạng, tỷ lệ người Hán đã lên đến 90%. Nghĩa là chiếm gần như tuyệt đối, còn ở Tân Cương tỷ lệ người Hán đã lên đến 64%. Có một truyện ký “Đi Tìm Tây Tạng” của nhà văn Minh Đức trên Blog của Osin, giống như bức ảnh chụp. Với thực trạng của Tây Tạng bây giờ. “Ôi! đất nước Tây Tạng mà không tìm thấy một người. Đi thăm những người Tây Tạng bây giờ phải bỏ tiền ra mua vé mới được xem. Phải mất 45 quan đắt quá nhỉ, Trung Quốc thu tiền về mà họ chẳng tốn gì.” (…) Những nhà tu hành, những người dân hiền hòa bên trong Tây Tạng, những người đã khổ đau và tiếp tục khổ đau quá nhiều. Tất cả họ đang đối diện trước một chương trình, chiến lược và một hệ thống kỹ thuật có tính toán kỹ lưỡng nhằm phá hủy truyền thống văn hóa và mục tiêu cuối cùng là diệt chủng dân tộc. 
Chiến lược này không phải chỉ áp dụng ở Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng mà nó đang diễn ra ở Vương quốc Lào, Cao Miên, Miến Điện và Việt Nam.. Đọc những tài liệu về Tầu Cộng đối với các nước láng giềng, với các dân tộc nhỏ, thật là buồn, nhiều khi không muốn đọc nữa vì nó quá khủng khiếp, quá man rợ đối với con người! Chúng ta tự hỏi, có bao giờ giới lãnh đạo Bắc Kinh nghĩ đến số phận của người Mông Cổ, người Tây Tạng và các dân tộc khác? Không, không bao giờ. Họ phải chiếm lấy bằng bất kỳ giá nào, bất kỳ một hành động dã man tàn bạo nào. Họ không suy nghĩ như một con người, như chúng ta. Dù là người ở châu Phi, châu Mỹ La Tinh, châu Âu, châu Úc… Tất cả chúng ta là những con người như nhau. Tất cả chúng ta cùng tìm kiếm hạnh phúc, sự bình an và cố gắng tránh khổ đau. Nghĩa là chúng ta có cùng một căn bản nhân tính đầy đủ tự nhiên của con người. Ngược lại, giống người Hán không có cùng căn bản như chúng ta. Chúng là một thứ ác quỷ không ngừng gây họa cho con người. Thật không vui chút nào khi nói ra những lời cay độc hay dùng những danh từ quá nặng nề để chỉ cả một dân tộc. Với ý nghĩ đó sẽ không tạo được sự hài lòng đối với người Hoa, và cho các thế lực hắc ám khác trên thế giới. Điều này không có gì lạ, bởi vì chính chúng ta cũng không hài lòng về mình.
Nhân loại, nếu có kẻ thù nào cần phải tiêu diệt để thế giới được sống an bình thì đó chính là chủ nghĩa Đại Hán. Chúng đã gây ra không biết bao nhiêu thảm họa cho con người, và cả thế giới đều chứng kiến từ thảm họa này đến thảm họa khác... Tầu Cộng từng ngày một đều làm tăng sự lo ngại của thế giới, từng ngày một chúng ta đều tai nghe mắt thấy chúng thọc bàn tay đẫm máu vào mọi ngõ ngách đời sống của nhiều dân tộc. Chúng đích thực là kẻ thù của hòa bình thế giới. Tình huống mỗi quốc gia một khác nhau, thì các kiểu giết người của Tàu Cộng cũng phải khác nhau. Những tên trùm diệt chủng ở Bắc Kinh đã xử dụng các loại, các phương pháp khác nhau để xâm lăng, đồng hóa, hoặc diệt chủng các dân tộc… Tùy theo thời kỳ, tùy theo bối cảnh lịch sử...Trong hiện tại phần lớn trường hợp chúng dùng TIỀN, đầu tư Kinh Tế, Di Dân đại quy mô để xâm chiếm các nước. Việc di dân, đầu tư thương mại để che đậy hành động xâm lăng đã lộ rõ nguyên hình ở Vương Quốc Lào, Campuchia, Miến Điện, Phi Châu v.v… Tiêu tiền của Tầu Cộng, dùng hàng hóa của Tầu một thời gian dài, tâm hồn dân xứ đó dễ trở thành quái dị… Hiện nay, không ít nhà văn Việt Nam (ngụy văn) có khuynh hướng hạ nhục các vị anh hùng dân tộc và ca tụng kẻ thù truyền kiếp… Tuyên truyền nhồi sọ văn hóa Hán cho lớp trẻ bằng nhiều hình thức đập vào mắt mọi người là phim ảnh, truyện Tầu ngay trên các kênh truyền hình nhà nước, sản phẩm độc hại đó tràn ngập xã hội Việt Nam! Nguy hiểm xảo trá vô cùng. Kẻ thù âm mưu tiêu diệt chất Việt trong người Việt, khi bản chất văn hóa hai dân tộc là “riêng biệt.” Tính cách Việt không như một lớp sơn bên ngoài, nó biểu hiện một tính cách tuyệt đối thị hiếu của dân Lạc Việt: đạo đức, trí tuệ và mỹ thuật, tình cảm sống nhân phẩm. Người Tầu không vượt lên trên dù chỉ một tý. Về chiến trận kẻ thù truyền kiếp nhiều lần đã bị đè bẹp, nhiều đạo quân Tầu bị đập tan. Truyền thống yêu nước người Việt mạnh và mãnh liệt hơn người Tầu. Các mặt trận không thể thắng, nay họ mưu đồ hủy diệt dân tộc VN thông qua các hiệp ước “Hợp tác toàn diện”, “Hợp tác văn hóa và giáo dục” với bọn Việt gian.
Tấm màn che mặt người anh cả, người đồng chí dù trong giao thiệp cũng đã rơi xuống trong một thời điểm khác thường, khi cuộc sống đang hoàn toàn bị xáo trộn. 
Câu hỏi có thể được đặt ra với chúng ta là Đại Họa Diệt Chủng được thai nghén từ khi nào? Và được thực hiện như thế nào? Tầu đối với các quốc gia lân bang đã từ lâu trong bối cảnh thế giới ngày càng có nhiều biến động. Tầu cộng càng tỏ ra hung hăng xâm lăng lãnh thổ các quốc gia láng giềng, rồi tình hình đất nước mỗi lúc thêm nguy hiểm và cả thế giới đang lo ngại họa diệt chủng tại các nước bị Tầu cộng chiếm đóng như đã nêu.
Tuy nhiên, trong chính sử thời hiện đại nhiều sự kiện quan trọng đã bị bỏ qua và nhiều nhân vật quan trọng trong đoàn cố vấn Tầu giúp họ Hồ và Đảng CSVN trong hai cuộc chiến, cũng như các chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất không được nói đến. Đây là một việc không thể chấp nhận được. Những câu chuyện cá nhân có thể nhận đựợc sự khoan dung. Những người muốn nghiên cứu thích đáng về quá khứ không được phép bỏ qua hoặc đề cập một cách mơ hồ và không trực tiếp.
Tầu cộng ngày càng tỏ ra hung hăng, ngang ngạnh, diễu võ dương oai trên biển Đông và biển Nam Hải đe dọa nền hòa bình thế giới, coi thường dư luận quốc tế. Chuyện xâm lăng, diệt chủng đã xẩy ra và báo chí thế giới đang nói đến nhiều, cả nhân loại lo âu theo dõi hành động diệt chủng của người Hán ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông vv… Với người Việt Nam, ai cũng phải đau lòng về hiện tình đất nước. Qua những chứng tích lịch sử về sự xâm lăng của người Tầu và vạch mặt bọn tay sai đằng sau làn khói mù “Tuyên ngôn độc lập, Kháng chiến chống Pháp, Chống Mỹ giải phóng miền Nam”, kết quả là giới lãnh đạo Đảng cộng sản VN đưa dân tộc vào vòng Bắc thuộc! Đây là một đại thảm kịch cho dân tộc Việt Nam!!!
Gieo rắt tai họa cho dân tộc VN, bắt đầu từ khi cộng sản cướp chính quyền. khung cảnh bầu trời Việt Nam thấp xám, đang tàn trên kiếp người lăn lộn như con thú trước bức màn sắt đã sập xuống! Kẻ sát nhân lên ngôi, đôi tay đỏ lòm máu hàng triệu nạn nhân. Đó là xứ sở của bất hạnh, sa mạc của thất vọng, nơi không ân phước và công lý. Nơi nhiều cuộc xâm lăng và các cuộc chiến không tuyên bố giữa Pháp với Tầu Cộng, giữa Hoa Kỳ -Tầu Cộng trong chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Bắc Kinh.
Với một triều đình Tàu vo ve, háo hức như bày sói đói kinh niên được thả ra vồ chộp những con nai vàng đang ngơ ngác trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, và ăn tươi nuốt sống vùng Ngoại Mông, chiếm gọn nước Cộng Hòa Hồi Giáo (Tân Cương). Tiến hành xâm lược ba nước Đông Dương bằng đội quân bản xứ được chỉ huy bởi những viên cố vấn và tướng lãnh Tàu. Biến đảng cộng sản Việt Nam thành một thứ công cụ xâm lăng, bành trướng. Cứ xem chính các tướng Tầu ghi lại các cuộc họp của chính trị bộ đảng cộng sản Tàu về việc đưa cố vấn sang Việt Nam, Mao Trạch Đông trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo đoàn cố vấn trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp và cuộc Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ). 
Mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh- Mao Trạch Đông với cố vấn La Quý Ba. Mao đã xử dụng con bài Hồ Chí Minh như một thứ “bảo bối” trong cuộc xâm lăng ba nước Việt, Miên, Lào là cái bình phong tranh giành thuộc địa Đông Dương với Pháp… 
Về thời kỳ CCRĐ với vai trò của cố vấn Tầu Cộng, với cảnh đấu tranh giai cấp đẫm máu, rùng rợn. Hệ thống công an, mật vụ kết hợp với việc áp dụng chính sách “hộ khẩu” và “sổ lương thực”. Đây là những đại bi kịch đau thương.
Trong lĩnh vực như văn hóa, văn minh Hoa Lục, thứ văn hóa xâm lăng, và văn minh khạc nhổ được cọ sát bắt đầu với nhân vật Khổng Tử, nền văn hóa Trung Hoa. 

CHỦ NGHĨA ĐẠI HÁN VÀ ĐẠI DỊCH DIỆT CHỦNG 
Việc thành lập nước “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa,” giữa thế kỷ XX. Đây là chuyện không may cho dân tộc Tầu. Đồng thời là một đại họa cho nhiều quốc gia lân bang như Tây Tạng, Việt Nam, Lào, Campuchia, Miến Điện và có ảnh hưởng “xấu” đến nhiều dân tộc trên thế giới. Vừa mới cướp được chính quyền từ chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch “Quốc Dân Đảng”. Công việc tổ chức guồng máy nhà nước Tầu Phù mới còn đang ngổn ngang, bề bộn… Ngay khi người ta đang tranh luận với nhau về tên nước, quốc kỳ, quốc ca, quốc huy và dường như cả giới sĩ phu nước Tầu đang vắt óc suy nghĩ về tên nước, quốc kỳ, quốc ca…, để biểu hiện đặc trưng của một nước Tầu mới, thì Mao Trạch Đông đã tính ngay đến việc xâm lăng nước Tây Tạng, và thôn tính nước Việt Nam. Nhìn lại bối cảnh lịch sử, cho chúng ta thấy rõ điều đó: Từ tháng 3 năm 1947 đến tháng 3 năm 1948, trong vòng một năm, quân cộng sản của Mao chuyển mặt trận về Thiển Bắc “giải phóng quân Trung Quốc” từ thế phòng ngự, bắt đầu chuyển sang thế tấn công toàn diện quân của Tưởng Giới Thạch. Cục diện chiến tranh bất lợi cho quân Tưởng. Tháng 3 năm 1948, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai, Nhiệm Bất Thời vượt sông Hoàng Hà. Hạ tuần tháng 4 năm 1949, quân của Mao như thế chẻ tre vượt Trường Giang hiểm trở. Với ý đồ “di sơn đảo hải”, đánh tan nhiều cánh quân của Tưởng Giới Thạch ở phía Nam nước Tầu. Tháng 6 năm 1949, quân cộng sản của Mao cùng một lúc mở nhiều chiến dịch, đã chiếm được Nam Kinh, nhanh chóng tiến vào Đại Địa Khu Giang Nam, nhà nước cộng sản Tầu đã đứng trước đêm giao thừa của ngày toàn thắng. Chỉ có điều là nước Tầu mới ra đời vẫn chưa có tên gọi! Trong Trung ương Đảng cộng sản và Mao vẫn quen gọi là nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Trung Hoa. Song, công việc chuẩn bị cho một nhà nước thì việc xác định tên nước, quốc kỳ, quốc ca, quốc huy tượng trưng cho việc tồn vong của một quốc gia là công việc hàng đầu, hệ trọng. Hội Nghị Hiệp Thương chính trị trù bị do Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai triệu tập, gồm có sáu nhóm, mỗi nhóm chịu trách nhiệm một vấn đề, nhóm 6 do Diệp Kiếm Anh đứng đầu, chịu trách nhiệm làm phương án tuyển chọn quốc kỳ, quốc ca và quốc huy. Cùng lúc này là việc xếp đặt cơ cấu nhân sự của chính phủ, một công việc vô cùng quan trọng cần phải giải quyết gấp. Nhân viên công tác trong vụ viện, và cả cấp cơ sở khác đòi hỏi số lượng lớn của một đất nước có gần một tỉ dân, lấy đâu ra? Trong khi mới ở rừng về? Đó là vấn đề lớn đầu tiên mà Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai cùng những nhà lãnh đạo Trung ương đã thảo luận trong Hội Nghị Hiệp Thương. Nhưng làm thế nào để có thể giữ được thế cân bằng, ổn định là một việc vô cùng khó khăn và phức tạp. Do Chu Ân Lai có thời gian công tác trong Quốc Dân Đảng (của Tưởng Giới Thạch) làm giám đốc Sở Nội Vụ thuộc học viện quân sự Hoàng Phố, và cấp phó đại diện quân đội đầu tiên của Tưởng Giới Thạch nắm quyền tương đối lâu năm, hiểu rất rõ. Việc tuyển chọn người phụ trách các cấp, khu, bộ, viện, các tỉnh thành phần lớn do họ Chu đề xuất, sau khi bàn với Mao, nhờ đó, công việc các bộ môn trong chính quyền cộng sản Tầu nhanh chóng đi vào ổn định. Từ ngày 15 tháng 6 đến ngày 19 tháng 6, “Hội Nghị trù bị Hiệp Thương Chính trị” lần đầu tiên họp phiên toàn thể tại Điện Cần Chính Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông đọc diễn từ đại hội. Tuyên bố nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chính thức thành lập. Sau ngày quốc khánh Mao Trạch Đông, bạo chúa “nhất dạ sinh bách kế.” Tâm trí ông đã hướng về con nai vàng Tây Tạng. Một vùng đất cổ xưa của dẫy núi Himalaya, ẩn chứa trong lòng một lịch sử văn hóa ngang hàng với Hoa Lục. Vây quanh cao nguyên tươi đẹp có hơn 3000 hồ lớn nhỏ. Rải rác trong rừng sâu, tàng chứa trong lòng nó bao nhiêu sản vật quí giá dưới lớp tuyết dầy. Tây Tạng đã trở thành vùng đất để cho các triều đại nước Tầu thèm muốn, nhòm ngó. Đầu năm 1950, quân Mao đã tiến thẳng xuống đại địa khu Tây Bắc, cả Tứ Xuyên, Vân Nam, Trùng Khánh, Cam Túc, Thanh Hải hình thành thế bao vây nước Tây Tạng. Ngày 23 tháng 11, Mao Trạch Đông đã điện cho Bành Đức Hoài về vấn đề tiến quân vào Tây Tạng. Ông nói rõ: “Vấn đề giải quyết Tây Tạng, khác với Việt Nam… Không thể không xuất quân được, mà phải xuất quân không phải chỉ một đường Tây Bắc, phải cả đường Tây Nam nữa. Sau khi cục Tây Bắc đã bình định Xuyên Khang, rất tốt cho kế hoạch tổ chức tiến vào Tây Tạng.” Trung tuần tháng 12, Mao đi thăm Mạc Tư Khoa để ký kết hiệp ước, đồng minh hữu hảo Trung-Xô. Trong suốt cuộc hành trình, ông vẫn luôn luôn quan tâm đến vấn đề Tây Tạng và vấn đề Đông Dương mà Việt Nam được đặt lên bàn cân trước tiên, trong tương lai phải có một trăm triệu người Trung Quốc sống ở Lào, Miên, Thái Lan… ông muốn biến Việt Nam thành tiền đồn, dùng ĐCSVN làm tên lính xung kích. Hai là độc quyền trên con đường Mãn Châu Lý. Ông viết thư gửi những người lãnh đạo ở Trung ương, và gửi riêng cho những người phụ trách cục Tây Nam (quân khu) Đặng Tiểu Bình, Lưu Bá Thừa, Hạ Long, ông đã đưa ra ý kiến quan trọng: “Tiến vào Tây Tạng nên sớm chứ không nên muộn”. Chiếm vùng Cao Nguyên Nóc Nhà Thế Giới Tây Tạng quả thực là miếng mồi ngon trước miệng con gấu đói. Về địa lý, Tây Tạng là một cao nguyên số một trên thế giới, độ cao so với mặt biển là 1,600 thước, khoảng 5,500 m. Chỗ thấp nhất như các dòng sông cũng cao hơn mặt biển 4.000m đến 5.000m. Vì vậy, Tây Tạng có tên gọi là (Nóc nhà thế giới). Về quân sự Tây Tạng ở vị trí chiến lược rất quan trọng là từ các đỉnh núi cao nó trực tiếp uy hiếp nước Ấn Ðộ, Miến Ðiện, Nepal và cả các nước vùng Trung Á. Quân Tầu Cộng có thể dùng đại pháo rót xuống các điểm nó muốn một cách chính xác. Thâm hiểm của Bắc Kinh là sẽ lợi dụng những dòng sông lớn khởi nguyên từ Tây Tạng để triệt các đối thủ bằng cách xây dựng đập thủy điện khổng lồ “mở”, “đóng” theo ý chúng. (sẽ nói ở chương sau) Ðất nước Tây Tạng rộng mênh mông chiếm quá 12% tổng số diện tích đất của Hoa Lục, phía Bắc giáp Tân Cương và Thanh Hải, phía Ðông Nam nối liền với tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam, phía Tây có biên giới chung với Miến Ðiện, Ấn Ðộ, Bu Tan, Xích Kim và Nepal phía Tây giáp với Pakistan, Afghanistan hình thành một đường biên giới dài tổng cộng 4.000 Kilomet. Diện tích rộng gấp bẩy lần nước Pháp. Các thế kỷ trước, Tây Tạng là một vùng đất khuất lấp với thế giới, nhưng vào thời đại ngày nay nó giữ một vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Nó có thể dùng làm bàn đạp xâm lăng nhiều quốc gia trong vùng. Chính vì thế, khi vừa mới nắm được quyền thống trị đại lục Tầu Cộng năm 1950, Mao Trạch Ðông đã gửi điện khẩn cho Bành Ðức Hoài chuyển tới những người phụ trách Cục Tây Nam lúc bấy giờ là Ðặng Tiểu Bình, Lưu Bá Thừa, Hạ Long. Ông nói: “Nước Tây Tạng dân số không đông, nhưng giữ một vị trí hết sức quan trọng trên trường quốc tế, chúng ta phải chiếm lấy bằng được, để cải tạo nó và biến nó thành “dân chủ nhân dân”. Tham vọng cuồng nộ từ trong cốt lõi, vẫn chủ trương bành trướng, lúc nào cũng nuôi tham vọng tầy trời là nới rộng mọi vùng biên cương và tiến vào mọi biên thùy đặng mai này nó có thể chinh phục cả thế giới. Sau khi nhận được lệnh của Mao Trạch Ðông, Ðặng Tiểu Bình, phụ trách cục Tây Nam đã nhanh chóng quyết định quân đoàn 18 dã chiến và một số lớn quân địa phương ở các tỉnh biên giới với nước Tây Tạng, đã bất ngờ tấn công vào Tây Tạng. Tổng chỉ huy chiến dịch xâm lăng này là Trương Quốc Hoa. Mở đầu chiến dịch đánh chiếm Xương Ðô là cửa vào Tây Tạng. Thành Xương Ðô ở ngã ba, nơi hội nhập của hai chi lưu lớn vào sông Lan Thương và Kim Sa. Ðây là con đường duy nhất Xuyên Khang để vào Tây Tạng. Nó cũng là yết hầu của ba con đường đi vào Nam, Bắc và miền Trung Tây Tạng. Lúc bấy giờ chính phủ Tây Tạng lập tổng hành dinh tại Xương Ðô, trong khu vực phòng ngự chiến lược này quân đội quốc gia Tây Tạng, toàn bộ gồm có 17 trung đoàn, trong đó có 10 đại bản doanh, được trang bị bằng vũ khí của Anh, cộng với quân địa phương khoảng 8000 quân sĩ được bố trí rải rác từ bờ sông Kim Sa đến trung tâm thành Xương Ðô, với mục đích dùng lực lượng quân sự này để ngăn chặn quân Tầu. Ngày 6 tháng 10, quân Tầu Cộng mở chiến dịch Xương Ðô. Theo kế hoạch đã dự định, quân Tầu Phù tấn công xâm lăng Tây Tạng theo hai tuyến Nam-Bắc. Tuyến phía Bắc tập trung 4 lữ đoàn, do Ðặng Hà vượt sông Kim Sa chia nhau tấn công vào Xương Ðô. Trong đó một lữ đoàn hợp đồng tác chiến do tướng Ngọc Thu chỉ huy đội kỵ binh Thanh Hải từ phía Nam tiến về hướng Tây Xương Ðô đến Tây Bắc Xương Ðô, theo đường hẻm kỵ binh cấp tốc xuống phía Nam, trước tiên đánh chiếm An Dạt. Cắt đường rút lui về hướng Tây của  quân Tây Tạng ở Xương Ðô. Hai lữ đoàn ở tuyến phía Nam do Khang Tây Ba vượt sông Kim Sa nhanh chóng tiến vào Khozenching, Ninh Tĩnh, thẳng đến Benda, Baxu ngăn đường rút lui về phía nam của quân Tây Tạng. Ngày 21-2-1950, báo chí Tầu ở Bắc Kinh loan tin: “Chiến dịch Xương Ðô kết thúc thắng lợi Hồng Quân tiêu diệt 5,700 quân Tây Tạng”. Sau đó nhiều toán quân Tầu từ mọi hướng tiến vào tràn ngập quốc gia Tây Tạng nhỏ bé. Ði đến đâu quân Tầu cũng giết chóc, cướp phá một cách dữ dội, dã man chưa từng có trong lịch sử nước Tây Tạng. Cái thuở ban đầu, khởi điểm của mọi thảm họa trong cốt lõi của chủ trương duy vật, vô thần. Thêm một điều cần phải được ghi nhận là họ cuồng nộ với cả thiên nhiên xứ này. Trong khi quân Tầu Cộng tàn sát nhân dân Tây Tạng đẫm máu, thì cùng lúc đó trên báo chí Tầu Cộng bắt đầu đăng kín những tin: “Nhân dân Tây Tạng vui mừng, phấn khởi, đón mừng quân giải phóng Trung Quốc” “Ðáp án lịch sử xây dựng Tây Tạng mới”. Và nhất loạt cho nó một cái tít lớn là: “Con đường thống nhất tổ quốc đoàn kết dân tộc chấn hưng Tây Tạng” các vấn đề được đề cập đến có: “Tại sao nói dân tộc Hán và dân tộc thiểu số không ai tách khỏi ai?” hay “Quân giải phóng nhân dân đóng ở Tây Tạng đã có những cống hiến nổi bật gì với việc xây dựng Tây Tạng mới” v.v… Sự lừa dối hay xảo trá của CS Tầu Cộng và cộng sản Việt Nam ở đâu cũng làm thế và nó thường được tung ra trong khi nó gây tội ác “giải phóng” nhân dân vui mừng phấn khởi… v.v… là những khẩu hiệu khá quen thuộc.

Thứ Năm, 5 tháng 7, 2018

KINH TẾ VIỆT NAM LỆ THUỘC QUÁ NHIỀU VÀO TRUNG CỘNG.

 .Không có văn bản thay thế tự động nào.
 
Nhập siêu từ Trung Cộng tăng đều đặn hàng năm, 90% dự án công nghiệp nặng lọt vào tay nhà thầu TC: nền kinh tế Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào TC một cách đáng ngại.
Tình trạng kinh tế của Việt Nam bị lệ thuộc vào một nước láng giềng có tham vọng bành trướng là Trung Cộng.
Khởi đi từ phạm trù kinh doanh khi chi nhánh của một tập đoàn bảo hiểm hay ngân hàng trở thành công cụ cho doanh nghiệp mẹ - gọi là “captive company” - tính chất công cụ qua nhiều lớp của một nền kinh tế bị lệ thuộc vào nhà nước, nhà nước lệ thuộc vào một đảng độc quyền và các đảng viên cán bộ. Chuyện tai hại không chỉ là các nhóm lợi ích chồng chéo làm kinh tế đi theo định hướng lệch lạc mà là khi đảng độc quyền đó lại lệ thuộc vào một đảng độc quyền khác của một quốc gia láng giềng. Khi ấy, nói về “nền kinh tế công cụ”, điều đã xảy ra và đang xảy ra tại VN.
Chúng ta tập trung vào lĩnh vực kinh tế, chưa nói về các nguyên nhân chính trị thuộc về lịch sử của hai đảng Cộng sản láng giềng đã có quan hệ gần như huyết thống hay mẹ con.
- Nói riêng về kinh tế, sau khi đổi mới, Việt Nam đã có cơ hội vượt thoát, nhưng sau đó lại trôi về chốn cũ là cứ lệ thuộc vào Trung Cộng, từ TƯ TƯỞNG, THỂ CHẾ đến SÁCH LƯỢC KINH TẾ, nên tình trạng công cụ càng được củng cố….
- Lãnh đạo Việt Nam vẫn sống trong không gian hai chiều Nam-Bắc, làm gì cũng nhìn lên phương Bắc mà chẳng thấy ra nhiều hướng khác của thế giới, và tai hại nhất là không thấy tương lai của xứ sở là trí tuệ của người dân qua giáo dục và đào tạo. Đấy mới là tài nguyên đích thực có PHẨM CHẤT, chứ không nên đo ở SỐ LƯỢNG của Tiến Sĩ Giấy.
- Khi nhìn ra thế giới thì họ không học hỏi mà chỉ muốn dân lao động đem sức lực hơn trí tuệ làm gia công cho ngoại quốc nhờ ưu thế nhất thời là lương rẻ để xuất cảng ra ngoài. Giới đầu tư cận kề, tại Trung Quốc, sẵn sàng nhảy vào đó, họ góp vốn bằng thiết bị và công nghệ lỗi thời vì năng suất kém mà ô nhiễm cao. Và họ đưa giá lên cho ta ôm về những kỹ thuật giết người, trước hết là giết dân mình. Việt Nam có vài chục dự án thuộc loại tự sát đó.
- Tính chất công cụ của nền kinh tế là một xoáy ốc kỳ lạ như các con búp bê rỗng ruột của Nga mà cốt lõi là đảng lồng trong nhà nước và thân tộc. Vì đảng quy định qua Hiến pháp rằng “đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân” mà lại “do nhà nước thống nhất quản lý”, đảng viên cán bộ lấy đất của dân với giá rẻ mạt để làm giàu cho họ trong thế liên doanh tai hại ấy. Từ đó mới có các nhóm lợi ích với chủ trương tiến hành sách lược công nghiệp tội nghiệp, trong khi giới đầu tư Trung Cộng được ưu đãi để chiếm vị trí chiến lược nhất về an ninh trên lãnh thổ Việt Nam. Giới chuyên gia quốc tế chỉ thấy sai lầm của sách lược xử dụng đòn bẩy là đầu tư nước ngoài, chuyên gia TC thì nhìn xa hơn và biết khai thác thể chế tham ô của Việt Nam cho quyền lợi của họ.
Chiến lược tăng trưởng
Lãnh đạo Việt Nam có “chiến lược phát triển” mà mới chỉ học chiến lược tăng trưởng, chứ phát triển đòi hỏi phẩm chất là cái mà Việt Nam chưa hề có và cũng chẳng học được gì của xứ khác.
- Theo dõi các thống kê, dù chưa khả tín lắm, ai cũng thấy đầu tư ngoại quốc ăn lời lớn nhờ nhân công của ta và sẽ rút chạy qua nơi nào có nhân công rẻ hơn, hoặc có công nghệ sản xuất cao hơn, là điều đang xảy ra! Thí dụ như khi người máy tự động trong ngành dệt sợi may mặc xuất hiện nhiều hơn, trường hợp SewBots đã thấy, thì Việt Nam sẽ tắt thở. Đó là chuyện chung, khi Việt Nam để kinh tế quá lệ thuộc vào nước ngoài qua xuất nhập cảng, với một tỷ lệ nguy hại như tự sát.
- Riêng về TC thì đấy là sự tàn sát. Doanh nghiệp ngoại quốc, như Mỹ, Nhật, Nam Hàn hay Đài Loan, v.v… còn có tiêu chuẩn phải ít nhiều tuân thủ về môi sinh hay lao động. Doanh nghiệp TC thì không, và có biệt tài xuất cảng ô nhiễm sau khi đã tàn phá lãnh thổ của họ. Nhà thầu của họ vào Việt Nam như bậc thầy vì đặc tính công cụ chính trị ở trên, lại có tư thế là nhà băng cho vay với điều kiện dễ dãi và dễ chia chác, để thực hiện dự án hạ tầng, nguyên vật liệu và năng lượng. Môi sinh bị ô nhiễm vì xài công nghệ phế thải thì dân Việt Nam ráng chịu, như chúng ta thấy tại Cao Nguyên hay Hà Tĩnh và qua vài chục dự án khác. Quen chửi Chính quyền Donald Trump của Hoa Kỳ trong mâu thuẫn với Bắc Kinh, mấy ai thấy là 90% lượng thép Việt Nam bán cho Mỹ lại là thép của Trung Quốc được biến hóa thành sản phẩm của Việt Nam? Khi Việt Nam bị Mỹ áp thuế nhập nội thì đấy cũng là cái tội từ Hà Nội lồng tới Bắc Kinh!
Ai khuyên Việt Nam trở thành một đại gia về thép trong khi xứ này chẳng có quặng sắt là nguồn tài nguyên lớn như Úc hay Brazil? Đặc tính công cụ cho Bắc Kinh có thể trả lời câu hỏi đó! Việt Nam sản xuất thép thì cần quặng, cần điện và cần đầu tư với quy mô lớn quá sức mình. Nhưng có TC thì mọi sự trở thành dễ dàng: công nghệ khai thác quặng sắt và nhà máy điện chạy bằng than với nhược điểm gây ô nhiễm là những gì họ cung cấp. Còn chuyện lỗ lã hay môi trường sinh sống bị hủy diệt thì đấy là vấn đề của Việt Nam. Vì TC, Việt Nam không chỉ có tai họa tại Cao Nguyên Daknông từ mấy năm trước mà còn mắc nạn tại Hà Tĩnh với mỏ Thạch Khê nằm sâu dưới mực nước biển.
TAI HỌA TRUNG CỘNG.
Nhiều quốc gia đã gặp bài toán đó với Trung Quốc, như Sri Lanka, Pakistan, Miến Điện hay Malaysia, nhưng người dân có thể lên tiếng phản đối, người dân Việt Nam thì bị đàn áp cũng vì cái lý do CÔNG CỤ ghê tởm đó.
- Nhìn rộng ra ngoài, ta thấy các nước đi sau đều học các nước tiên tiến nhưng phải có ý thức độc lập và tự cường. Ý thức đó bắt đầu từ GIÁO DỤC rối đến ĐÀO TẠO để nâng trình độ KHOA HỌC KỸ THUẬT cho người dân, trước tiên là ở cấp Trung Tiểu Học để đa số đều có hiểu biết tối thiểu về đất nước và thế giới. Bước kể tiếp, thuộc thế hệ có trách nhiệm là dám bung ra ngoài để học hỏi KIẾN THỨC và KHẢ NĂNG THỰC HIỆN.
Trăm năm qua, Việt Nam chưa giải quyết xong bài toán đó thì lao vào chiến tranh và tàn phá. Ngày nay, ai có nhiệm vụ về kinh tế và kế hoạch cần đi học và đi mua công nghệ hay thuật lý của thiên hạ hoặc thuê chuyên gia ngoại quốc làm tư vấn cho mình. Mục tiêu là trong một thời hạn nhất định thì phải có sản phẩm của mình với giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao hơn.
- Các nước Nhật, Nam Hàn và Đài Loan đều trải qua giai đoạn học hỏi đó và trong chừng mực nhất định đều tìm cách bảo vệ thị trường chủ yếu và công nghệ non yếu của họ, nhưng thành công vì tôn trọng thị trường, xây dựng dân chủ và nhất là để tư doanh giữ thế quyết định trong khi nhà nước đảm nhiệm chức năng phối hợp và yểm trợ nhưng thường xuyên bị kiểm tra. Trung Cộng và Việt Nam thì thiếu các điều kiện cơ bản trên, duy trì chế độ độc đảng, quy chế phi thị trường, và thế chủ đạo của hệ thống quốc doanh trên đầu tư doanh, cho nên họ chỉ ăn cắp lẫn nhau và vì vậy mà thiếu bền vững. Đây là ta chưa nói đến chuyện mắc nợ!
Thương mại thế giới thật ra muôn hình vạn trạng và bị nhiều yếu tố chi phối chứ không đồng hạng và đơn giản như lý thuyết về tự do mậu dịch, là điều được coi là lý tưởng kể từ sau Thế chiến II. Thực tế thì xứ nào - kể cả các nước công nghiệp hóa như Âu, Mỹ, Nhật - cũng có một số khu vực được bảo vệ theo lý luận bảo hộ mâu dịch vì lý do kinh tế chính trị ở bên trong.
- Nói về các nước Đông Á đi sau, họ cũng trải qua giai đoạn học hỏi và tiếp thu công nghệ mới, trước đó chưa có, để có được những sản phẩm nội địa. Bước đầu thì phải giúp các sản phẩm đó thành công trong thị trường nội địa, tới độ từ chối đầu tư nước ngoài vào các thị trường non yếu này. Bước kế tiếp mới là mở rộng thị trường ra ngoài qua cạnh tranh để có phần thị trường cao hơn và muốn vậy thì phải tuân thủ quy luật cạnh tranh của các nước khác. Tiến trình tiếp cận đó xảy ra một cách thường trực và phức tạp nên cần thương thuyết và hiệp ước. Then chốt ở đây là học công nghệ mới để có sản phẩm với giá trị kinh tế cao hơn.
- Các nước thành công đều có Giáo Dục, Đào Tạo và Đại Học có Đẳng Cấp để biết tiếp thu công nghệ thay vì dùng bắp thịt làm ra các mặt hàng của thiên hạ với giá rẻ cho dễ xuất cảng. Sau đó các nước không gian lận, ăn cắp hay ăn cướp, để thụ đắc công nghệ mới như Trung Cộng, là điều nay đã thành mười phần rõ ràng khi bị Hoa Kỳ và Liên Âu khiếu nại với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO - World Trade Organization).
- Khác biệt nữa là sau khi có công nghệ mới, TC tìm cách cải tiến và cải tiến được, còn Việt Nam thì không. Cho nên Việt Nam nhặt lại công nghệ lỗi thời của xứ láng giềng trong thân phận "Công Cụ" bị lệ thuộc. Vì vậy, nếu muốn thoát Tàu Cộng thì Việt Cộng cần sửa từ "CÁI ĐẦU", về Chính Trị là ra khỏi nạn ĐỘC ĐẢNG, và về VĂN HÓA là làm một cuộc CÁCH MẠNG THẬT VỀ GIÁO DỤC.
- Suốt đời làm gia công cho nước đầu tư.
- Đầu Rồng TC, Đuôi Rồng VC.