PHƯƠNG NGỮ THỪA THIÊN HUẾ
Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày vừa biết tập tành đi nghễ mấy O Đồng Khánh, vừa ngấp nga ngấp nghé muốn vào (nhưng sợ bị chưởi) nhấm nháp thử ly cà phê đen sánh của cà phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ vẫn tấp nập ra vào; và cũng vừa biết để dành tiền để mua những tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn tại nhà sách Ưng Hạ. Phong cách Huế không ít thì nhiều cũng đã phôi pha, tiếng nói thuần chất của Huế cũng không mấy khi có dịp để dùng lại cho đỡ "giớ" (nhớ), cho khỏi quên; thành ra cũng xao lãng đi nhiều. Trong cái xao lãng bỗng có ý nghĩ muốn tìm lại, noái lại tiếng noái của thời cũ rích cũ rang nhưng đằm thắm đó. Cho nên chỉ xin được ghi lại đây những gì còn nhớ, còn thương mài mại, để gọi là khơi lại chút thanh âm của những ngày xưa cũ. Phương ngữ Huế đã đưa vào câu hò chào, hò mời là hò đối đáp, còn gọi là hò vay trả:
Nữ
Cây chi trên rừng không lá,
Cá chi dưới biển không xương.
Trai nam nhơn đối đặng, thiếp xin kết nghĩa tào khương với cùng.
Nam
Cây xương rồng trên rừng không lá,
Cá sứa dưới biển không xương.
Anh đà đối đặng, em phải kết nghĩa cương thường với anh.
Nam
Thùng bánh nhiều răng em kêu thùng bánh ít?
Quả trầu đầy răng em bảo quả trầu không?
Ai xui em ăn ở hai lòng,
Nói xuôi cũng được mà nói ngược dòng cũng hay.
Nữ
Đá không chưn, răng anh gọi là đá nhảy?
Cát không miệng, răng anh bảo cát gầm?
Ở xa không biết nên lầm,
Khoai lang xắt lát em cứ ngỡ sâm bên tàu.
Sau những câu đố, trêu chọc thử tài, dần dần phát sinh tình cảm nên cuối cùng là hát hò ân tình
Nữ xướng
Hơ hơ hơ khoan mời bạn ta lại hò khoan.
Nam xô Hơ hơ hơ …hơ
Nữ xướng
Hơ.. hơ Thiếp gặp chàng như rồng mây kia mà gặp hội,
Chàng mà gặp thiếp như chim phụng hoàng mà gặp cội ngô với cành ngô.
Nam xô Hơ hơ hơ …hơ
Nữ xướng
Mấy lâu ni kẻ Hán người Hồ,
Bữa ni thiên tri lý ngộ, quyết phân phô cho tận tình.
Nữ
Con sao hôm đã lặn,
Con sao mai đã mọc bên tê tề.
Anh ơi anh có điều chi phân đi nói lại cho em về kẻo khuya.
Nam
Mình về răng được mà về,
Câu thơ chưa gởi, lời thề chưa trao.
Phương ngữ Thừa Thiên Huế không phải chỉ đơn giản "mô tê răng rứa" như thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thơ, nhạc và văn xuôi như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người của xứ Huế; Thật ra, tiếng nói từng vùng, miền, thôn làng còn rối rắm nhức đầu, phức tạp, nhiều lắm, đa dạng và phong phú hơn nhiều. Tùy vào từng địa phương của Huế, sự thanh tao qua cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ; cũng rắc rối khó hiểu khôn lường.
Đơn cử một câu rất Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai O đang tuổi lấy chồng:
- “Tau noái với mi ri nì, en còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, en chộ tau phơi ló ngoài cươi, en kiêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba... en đẩn. Mi quai chướng khôn?”.
“Tao nói với mày như vầy, ảnh còn ở rể, vậy mà hôm kia kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào, bồng tao lên giường, rồi ảnh... Mày coi có kỳ không ?”.
Chữ "đẩn" hay "quất" ngoài ý nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên, còn có nghĩa như ăn:
- “Đẩn cho bưa rồi đi nghể”. (Ăn cho no rồi đi ngắm gái).
Đẩn cũng có nghĩa là đánh đòn:
- “Đẩn cho hắn một chặp!” (Đục cho hắn một hồi!).
Chữ đẩn còn được phong dao Huế ghi lại:
- "Được mùa thì chê cơm hẩm
Mất mùa thì đẩn cơm thiu"
- "Rứa thì anh có biết vụ hai đứa con ông Bảy bựa qua ngầy lộn chắc rồi lôi giau từ trong chờn ra trữa cươi đập chắc, một đứa bễ mỏ, một đứa u trốt. Mạ hắn can không được, đứng trữa cươi la làng như ”quạ quạ bẻ bắp”
– bựa qua: hôm qua
– lôi giau: lôi nhau
– ngầy lộn: gây gổ
– chắc: với nhau
– chờn: cái giường
– trữa cươi: giữa sân
– bể mõ: vỡ mồm, giập miệng
– u trốt: u đầu
Thêm một câu ngăn ngắn gần như rặt phương ngữ của Huế, mà nếu không có người thông dịch gốc Huế, rặt Huế, e rằng khó mà đã thông cho được.
- “Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nỏ biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê ! Chừ mạ tui cúng con gà, cụ mự qua chút chò bui”.
(Thưa cậu mợ, bố con vào rừng rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con cọp, vậy mà chẳng biết sao; con cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá. Giờ mẹ con đang cúng con gà, cậu mợ qua chút xíu cho vui)
Phương ngữ ở Huế thì nhiều lắm và cũng lạ lắm, nên xin được nhẩn nha tìm lại chút gì đã mất và ôn lại những gì đang còn tồn tại.
Để cho ra câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn:
- “Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi rượn đực!” (Thứ mặt mày hốc hác mà đòi hóng trai).
O mô mà lỡ mang cái nhãn "rượn đực", chắc phải ở giá "mốt trọ" (suốt đời) hoặc chọn kiếp tha hương may ra mới kiếm được tấm dôn (chồng).
Chữ "rượn" gần đồng nghĩa với câu con ngựa Thượng Tứ, câu này cũng độc không kém. Thượng Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam, bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế. Vì thế, gọi ngựa Thượng Tứ có nghĩa bóng bẩy xa xôi rằng con đó nó "ngựa" lắm, nhưng thâm thúy hơn nhiều.
Mấy O nớ thường hay rũ nhau hát đối đáp.
Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá,
Đò về Vỹ Dạ thẳng ngã ba Sình
Đoái nhìn sông Hương nước chảy xinh xinh,
Rứa chừ sông bao nhiêu nước
Sông bao nhiêu nước dạ em si tình nhiêu bấy nhiêu
Biết đâu là cầu Ô Thước,
Mênh mông nguyện ước dưới nước trên trờ.i
Đêm khuya ngớt tạnh mù khơi,
Khúc sông quạnh vắng có người sầu riêng.
Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nhớ thương
- “Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui này lại.!” (Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại).
Chữ "lưa" cũng còn có nghĩa là còn đó như trong hai câu trong bài ca dao Huế.
Cây đa bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó)
Con đò đã khác năm xưa tê rồi
"Này lại" (mua lại); tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương đương với chữ nhường lại, chia lại, mua lại. Chứ không dùng ở chợ búa hoặc nơi mua bán um sùm.
- "Đập chắc lỗ đầu, vại máu!" (Đánh nhau bể đầu, toé máu!)
- "Thương bọ mạ để mô? Để côi trốt!".
Chắc chúng ta cũng thường hay hỏi lũ con lúc chúng vừa tập nói, vừa biết tỏ tình thương đối với cha mẹ, câu này có nghĩa: “Thương bố mẹ để đâu? Để trên đầu!” Rồi đưa ngón tay chỉ chỉ, miệng cười cười, nghe hoài không biết chán.
- "Tra trắn rứa mà còn ở lỗ!" (Chững chạc, già đầu vậy mà còn ở truồng).
Ở lỗ cũng xuất hiện trong câu phương ngôn “ăn lông ở lỗ” hoặc “con gái Nam Phổ, ở lỗ trèo cau!”
- "Lên côi độn mà coi" (Lên trên núi mà xem)
Chữ "coi" về sau này đã phổ biến đến nhiều địa phương khác.
- "Mự đừng có làm đày!" (Mợ đừng có lắm lời, thày lay).
Riêng chữ "cụ mự" thường là dùng cho cậu mợ. Người Huế ít dùng chữ cụ để chỉ người già vì đã có chữ ôn hay ông. Điển hình như cụ Phan Bội Châu với chuỗi ngày “an trí” ở Huế, dân Huế đã có tên gọi ông già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế, khi nói đến cụ Phan.
Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng
- "Chộ chưa? Nỏ chộ!" (Thấy chưa? Không thấy!)
"Nỏ" là lối phủ nhận gọn gàng pha chút giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào!
- "Hắn mô rồi? Nỏ biết!" Chữ nỏ biết ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện hắn đang ở đâu! Tục ngữ Huế.
- "Có vỏ mà nỏ có ruột".
- "Khóc lảy đảy, không biết ốt dột!" (Khóc ngon khóc lành, không biết xấu hổ!).
- "En dòm tui, tui dị òm!" (Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá!)
Chữ "òm" người Huế vẫn thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: Ngon không? Dở òm!
- "O nớ răng mà không biết hổ ngươi.!" (Cô đó sao mà không biết mắc cỡ!)
"Hổ ngươi" cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ. Cũng như "xấu hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt dột, dị và hổ ngươi" có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng.
- "Chiều hắn cho gắt, hắn được lờn!": Chiều nó cho lắm vào, nó làm tới.
- "Mời ôn mệ thời cơm": Mời ông bà dùng cơm .
- "Mệ tra rồi mệ chướng": Bà ấy già nên sinh tật.
Chữ "chướng", người Huế cũng thường dùng để chỉ mấy đấng nhóc tì khóc nhè, bướng bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách hành xử ngang như cua.
- "Ăn bụ cua cho hết đái mế": Ăn vú cua cho hết đái dầm.
Chữ "bụ" cũng dành cho người và các loài có vú khác.
- "Bụ mạ" là vú mẹ, "bọp bụ" là bóp vú .
- "Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn dễ sợ luôn!" (Sao hôm nay tao buồn quá, buồn quá trời luôn!).
Dễ sợ, với người Huế không đơn thuần ở nghĩa thấy mà ghê! hoặc khủng khiếp quá!, mà còn có nghĩa,
ví dụ: "Con nớ đẹp dễ sợ!": Con bé đó đẹp quá trời.!
- "Răng mà cú tráu rứa tê?": Sao mà cộc cằn quá vậy?
Chữ "cú tráu" nếu phát âm đúng với giọng Huế thì nghe nặng hơn chữ cộc cằn nhiều, có lẽ phải gom thêm mấy chữ như thô lỗ, vũ phu thì mới lột tả được hết nghĩa.
Huế nói trại :
"Nói trại" là nói sai giọng, không đúng âm theo giọng viết, nói trại đôi khi cũng dùng trong trường hợp “nói khác đi, nói cách khác”. Cách nói bị biến âm này rất phổ thông ở Huế, nhất là dân cư vùng biển. Nói trại làm cho âm thanh nặng hơn, khó hiểu hơn.
- "Con tâu tắng ăn ngoài bụi te" tức là con (trâu trắng ăn ngoài bụi tre). "Tời tong tẻo, nước tong veo": Trời trong trẻo, nước trong veo.
- Hầu hết những từ bắt đầu bằng “nh” đều được người Huế nói trại thành “gi”: già (nhà).
"Giớ già giớ vợ ở già": Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!
- Những từ bắt đầu bằng “s” thì nói trại ra thành “th”:
"Ăn thung mặc thướng": Ăn sung mặc sướng hoặc "Thầy gòn" là Sài gòn, hoặc nữa: "Noái năng thòng phẳng": nói cho sòng phẳng, rõ ràng.
- Lối phát âm của người Huế không xác định được âm cuối là “n” hay “ng”:
Con thằng lằng chép miệng thở thang!: Con thằn lằn chép miệng thở than!
- Những chữ có âm “o” thường nói trại ra “oa”: "Xa voài voại, noái khôn tới, với khôn được, ngó khôn chộ": Xa vòi vọi, nói không tới, với không được, nhìn không thấy!
Hoặc nữa: "Đi coai boái, thầy boái noái đi coai cái voài voai" Đi coi bói, thầy bói nói đi coi cái vòi voi.
- Những chữ có âm “ô”, người Huế thường nói trại thành âm “u”: "Thúi trong thúi ra": Thối từ trong ra ngoài. "Túi lửa tắt đèn": Tối lửa tắt đèn.
- "Nậy rồi mà mũi rãi thò lò!": Lớn đầu mà mũi rãi lòng thòng! Chữ "thò lò" cũng đã góp mặt trong ca dao Huế:
Học trò thò lò mũi xanh
Cầm cái bánh đúc chạy quanh nhà thầy!
- "Vô rú mà đốn săng": Vào rừng mà đẵn gỗ.
Săng cũng đã góp mặt trong mấy câu hò giã gạo với lối đối đáp rất “văn hóa” của Huế:
Bên nữ:
Lẻ củi săng chẻ ra văng vỏ
Bỏ vô lửa đỏ than lại thành than
Trai nam nhân chàng mà đối đặng
Thiếp xin kết nghĩa tào khang trọn đời
Nghĩa: Cây củi gỗ chẻ ra văng (Văn) vỏ (Võ), thảy vô lửa đỏ thì thành than.
Bên Nam:
Tâu ăn giữa vạc ló lỗ
Đã ngụy chưa tề!
Nam nhân chàng đã đối đặng
Thiếp đã chịu theo chàng hay chưa?
Nghĩa: Con Tâu (Trâu) ăn giữa vạt ló (Lúa) lỗ (Trổ), sao kỳ quá vậy? Ý ư, cũng điển tích như ai: Trâu, Lỗ, Ngụy Tề là bốn nước thời Xuân thu Chiến Quốc cũng ở bên Tàu luôn.
- "En trên rầm thượng bổ xuống, nằm ngay đơ cán cuốc, phải địu đi nhà thương!": Anh ấy té trên rầm thượng té xuống, nằm cứng như cán cuốc, phải bồng, cõng đi nhà thương!
"Rầm thượng" là gác lửng, hay kho chứa bên dưới mái nhà ở Huế, rầm thượng không phải là chỗ ngủ nghỉ mà là nơi chứa những đồ gia dụng đáng giá nhưng phải cỡ nhỏ, vì không có lối lên. Muốn lên rầm thượng, phải bắc thang; Rầm thượng để cất giữ những đồ cổ vừa phải, không qúy lắm. Còn nếu qúy nữa thì bỏ vào rương xe, một thứ tủ thấp đóng bằng gỗ thật dày, có nắp đậy, có luôn 4 bánh xe để đẩy vì khiêng không nổi, nặng quá mà! Mặt bằng của rương xe là cái đi-văng, tối tối cứ trải chiếu nằm ngủ trên đó là khỏi lo trộm đạo
- "Nước mắt chặm hoài không khô, răng khổ ri nì trời!": Nước mắt lau, thấm hoài không khô, sao khổ vậy nè trời.!
Chữ "chặm" cũng đã lãng đãng trong mấy câu hò giã gạo, mà vì não nùng ai oán quá, nghe hò xong e phải bỏ chày luôn:
Hai hàng nước mắt như mưa
Cái khăn lau không ráo
Cái áo chặm không khô
Công anh đổ xuống ao hồ
Quì thưa bẩm dạ thuở mô đến chừ!
- "Mặt mày chạu bạu, ai chịu cho thấu!": Mặt mày một đống, ai chịu cho nổi!
Chữ "thấu" cũng có nghĩa là tới: "Kêu tời không thấu": Kêu không tới trời; "Vô thấu trong Thầy gòn": Vô tuốt trong Sài gòn. "Mả cha cái thằng vô hậu": Tiên sư cái thằng đoảng
- "Ăn tầu cơi thiếc": Ăn trầu (để) trong khay thiếc, quả bằng thiếc.
Cái "cơi thiếc" cũng đã đi vào tục ngữ Huế: Uống nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc.
“Mả cha mi” là tiếng chửi, lời nhiếc mắng rất thông dụng ở Huế, đồng nghĩa với “mồ cha mày”. Lối chửi này ít thông dụng ở những địa phương khác.
- "Đi xe hay đi chưn xuống rứa?": Đi xe hay đi bộ xuống đây vậy?
- "Túi thùi thui, có chộ chi mô!": Tối quá, không thấy gì hết!
- "Rạt gáo rồi mà còn làm le làm gió!": Cạn túi rồi mà còn làm, làm sang!
- "Ăn đoại cơm hến, uống đoại nước chè": Ăn tô cơm hến, uống bát nước chè (xanh).
Tục ngữ Huế: "Ăn lưng đoại, làm đoại lưng" (làm muốn gãy lưng).
Cơm hến, chẳng có chi cầu kỳ, nhưng nhiều mùi vị với lưng bát cơm nguội, rau sống, thân chuối non, rau thơm, xắt nhuyễn, nước luộc hến chan vô, cho chút xíu ruốc, bỏ chút ít hến xào, thêm vài trái ớt, đúng với cái ít ỏi của Huế.
- "Bữa ni đi kéo ghế": Hôm nay đi ăn nhà hàng.
Người Huế, nhất là ở thôn quê, thường dọn cơm trên phản, trên tấm ngựa. Không dọn trên bàn nên khỏi có cái vụ kéo cái ghế mà ngồi vào bàn. Vì thế, mỗi khi được dịp đi ăn ở quán, ở nhà hàng thì gọi là đi kéo ghế.
Huế làm đày làm láo, người Huế, nhất là mấy o, mấy mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa, ưa đa sự đa lự, ưa làm đày làm láo, tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói sự, nói dông nói dài. Thêm vào đó, phải nói cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan thì “tụng” mới phê!
Cái phong cách noái lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một cách nhấn mạnh, vừa có vẻ dạy đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn, thâm thúy hơn nữa.
Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn quá, lu bu lắm.
Người Huế ít khi dùng chữ "lắm" hay chữ "quá" mà dùng điệp ngữ: "Cái con nớ, lanh cha lanh chanh"!
Mấy mụ o giọn (nhọn) mồm tức mấy bà chị hay em chồng, mỏng mép của Huế vẫn đôi khi chê em dâu: "Răng mà hắn vô phép vô tắc rứa hè!": Sao mà nó vô phép quá vậy!
Về màu sắc, người Huế thường có lối nói điệp ngữ để nhấn mạnh: xanh lè lè, đỏ lòm lòm, đen thùi lùi, vàng khè khè, tím giắt giắt (tím ngắt).
Bởi, "đồ cà rịch cà tang rứa mà đoài làm giôn": Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà đòi làm chồng.
Còn nữa, để than trách ông trời sao mưa lâu quá, mấy o ngồi chỏ hỏ trong nhà dòm ra, chép miệng than dài than ngắn: "Mưa chi mưa mưa thúi đất thúi đai".
Một bà mẹ tụng cô con gái, một bà chị cả mô-ran cô em thứ mà nghe cứ như là đang đọc một bài đồng giao với vần điệu, trầm bổng cũng là một trong những sinh hoạt dưới mái gia đình:
- "Mi phải suy đi nghĩ lại cho kỹ! Mi coi, là con gái con lứa, đừng có đụng chăng hay chớ, cũng đừng lật đa lật đật, cũng đừng có mặt sa mày sỉa. Bọ mạ thì quần ống cao ống thấp, tất ba tất bật để nuôi mình. Tau thấy mi rứa, tau cũng rầu thúi ruột thúi gan!"
Cái thông điệp cho thằng em trai thì:
- "Năm tể năm tê, mi còn lẩm đa lẩm đẩm, mũi rãi thò lò, chừ mi nậy rồi, phải biết ăn biết noái, biết goái biết mở, vô khuôn vô phép. Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên vợ nên chồng, làm răng mi bông lông ba la hoài như cái đồ trôi sông lạc chợ cho được".
Mấy ôn, khi giáo huấn con cháu, vẫn thường trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm thêm cho ý tưởng của mình:
- "Đó, mi thấy đó. Ai ơi chớ phụ đèn chai, thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn. Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên rá, được cá quên nơm; thì mi lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ"