1.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, phong kiến Trung Hoa
dù cai trị trực tiếp hay gián tiếp, cũng thi hành một chính sách muốn
đồng hoá Việt Nam qua ngôn ngữ, văn hóa và chính trị. Tiếng Hán và
chữ Hán
trở thành một công cụ hữu hiệu trong hành chính và nhiều lĩnh vực khác.
Lịch sử có nhắc tới vai trò của Sĩ Nhiếp (làm Thái Thú Giao Chỉ vào
khoảng 187- 226) với tư cách là "Nam bang học tổ", tức là người đầu tiên
tổ
chức việc học ở Việt Nam. Nhưng thực tế vào thời Bắc thuộc quan cai trị
chỉ tổ chức dạy chữ Hán cho một số người Việt, đủ để làm công chức
trong bộ máy cai trị của người Hán chứ chưa phải là dạy chữ Nho nhằm
mục đích thi cử. Trong thời kỳ này, các chùa mới là trung tâm văn
hoá và người dân học chữ Hán ở các chùa chứ không phải các trường do
người Trung Hoa dựng nên. Theo sử sách, dưới thời Bắc thuộc, đã có một
số người giỏi chữ Hán, nhưng vẫn chưa có tổ chức học tập chữ Hán quan
trọng ngoài các chùa. Ai muốn đi thi thì phải sang Trung Hoa, như
Trương Trọng, Lý Cầm, Lý Tiến, Khương Công Phụ. Cho đến trước thế kỹ
XI,
những người tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam vẫn là các nhà sư.
2. Từ năm 939, Việt Nam giành được độc lập từ tay người Hán. Do nhu cầu phải đua tài với Trung Hoa để củng cố độc lập văn hoá, Việt Nam có nhu cầu tiếp nhận văn hoá Hán. Từ đó, việc học chữ Hán có quy mô chỉ bắt đầu từ thời độc lập. Về vấn đề này, chúng ta không quên công lao của các vị vua khai quốc thời Lý–Trần. Khi đất nước giành được độc lập, định hướng căn bản về ngôn ngữ văn tự là: tiếp tục dùng chữ Hán, coi đó là nền văn tự chính thức của nhà nước. Căn cứ vào những tài liệu còn lưu giữ được.
- Năm 1018 vua Lý Thái Tổ sai Nguyễn Đạo Thành và Phạm Hạc sang Tàu lấy Kinh Tam Tạng đem về để vào Kho Đại Hưng.
- Năm 1075 vua Lý Nhân Tông mở Khoa thi Tam trường để tuyển người ra làm quan, năm sau vua lập Quốc Tử Giám, tổ chức giảng dạy.
- Năm 1086 Vua lại mở khoa thi chọn người vào Hàn Lâm Viện. Theo Nguyễn Tài Cẩn, “Tri thức Hán học của người Việt ở giai đoạn nhà Ngô, Đinh, Lê là một sản phẩm còn lưu lại của chế độ Bắc thuộc, còn tri thức Hán học của người Việt từ đời Lý trở về sau lại là sản phẩm có chủ đích với ý thức của một triều đình nước Việt độc lập. Sự định hướng này làm cho Việt Nam đi hẳn vào phạm trù văn hoá Hán, đứng bên cạnh Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản. Về mặt ngôn ngữ, sự định hướng này làm cho tiếng Việt đi xa dần các ngôn ngữ của bà con sắc tộc khác.vốn cùng sống trên một lãnh thổ.
Nhà Trần và các triều đại tiếp theo vẫn tiếp tục sự nghiệp của nhà Lý, cũng tổ chức học hành thi cử bằng chữ Hán, cũng sáng tác bằng chữ Hán.
Trên thực tế, lịch sử chứng tỏ rằng định hướng ngôn ngữ văn tự của các
triều đại Việt Nam đã khiến cho sự tiếp xúc văn hoá, ngôn ngữ Việt Hán
phát triển. Kết quả là:
– Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói của mình.
– Tiếng Việt đã tiếp nhận các yếu tố Hán Việt, để rồi Việt hoá chúng làm phong phú kho từ vựng của mình.
– Hình thành cách đọc Hán Việt, một cách đọc chữ Hán riêng của người Việt Nam.
Cách đọc Hán Việt là cách đọc chữ Hán ở Việt Nam của người Việt Nam. Cách đọc đó phản ánh dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường được dạy và học ở Việt Nam lúc bấy giờ. Tất nhiên so với dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường thì cách đọc Hán Việt cũng đã được Việt hoá ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt thời đó. Âm Hán Việt chịu ảnh hưởng của phương ngữ tiếng Hán. Các tác giả cho rằng tại vùng giáp Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay, trong thời cổ, từng có một phương ngữ Hán quyền uy, đó là phương ngữ Quảng Tín. Trong hơn 300 năm kể từ năm 106 trước công nguyên cho đến năm 217, Quảng Tín luôn là trụ sở của Bộ Thứ Sử Giao Chỉ (về sau là Bộ Thứ Sử Giao Châu), là trung tâm chính trị, văn hoá của Lĩnh Nam. Ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam ở trong nước Việt Nam, thuộc về sự cai quản của Bộ Thứ Sử Giao Chỉ, Việt Nam chịu ảnh hưởng của trung tâm chính trị, văn hoá thời bấy giờ là điều tất nhiên. Trong thời gian Sĩ Nhiếp làm Thái Thú Giao Chỉ, âm Hán mà người Việt học không phải là âm Trung Nguyên, mà là âm của một phương ngữ nào đó lúc bấy giờ. Các tác giả khẳng định phương ngữ Hán này phải là phương ngữ Quảng Tín. Bản thân Sĩ Nhiếp chính là người Quảng Tín Xương Ngô. Quảng Tín lại là phương ngữ quyền uy thời kỳ đó, dạy học sinh Việt Nam bằng phương ngữ Quảng Tín cũng là điều bình thường. Vì trung tâm chính trị Lĩnh Nam di chuyển sang phía đông [năm 217 Tôn Quyền dời trung tâm chính trị Lĩnh Nam từ Quảng Tín Xương Ngô đến Phiên Ngung (thành phố Quảng Châu ngày nay) Nam Hải] và theo di chuyển của người Hán, phương ngữ Quảng Tín phân hoá dần, cho nên hình thành đối ứng không đồng đều về đặc trưng ngữ âm giữa âm Hán Việt và mấy phương ngữ Hán hiện đại.
3. Trên cơ sở của chữ Hán, dựa vào nguyên tắc cấu tạo chữ Hán, người Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm, một thứ chữ ghi lại tiếng nói của dân tộc. Ban đầu, chữ Nôm mới chỉ là những ký tự dùng để phiên âm các từ ngữ nước ngoài, những địa danh, tên người ở Việt Nam mà vốn chữ Hán không thể hiện được. Khi hệ thống văn tự Nôm được hình thành và việc sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm đã trở thành phong trào thì có sự phân công giữa chữ Hán và chữ Nôm về mặt chức năng: chữ Hán dùng trong hành chính, giáo dục, trong giao tiếp triều chính, còn chữ Nôm thì dùng trong giao tiếp, văn chương bình dân. Theo Phan Huy Chú, Vua Lê Thánh Tông trị vì 38 năm, mở 12 kỳ thi, lấy 501 tiến sĩ, trong số đó có 9 trạng nguyên. Tuy coi trọng chữ Hán hơn chữ Nôm, nhưng phong trào sáng tác bằng chữ Nôm vẫn phát triển mạnh. Quan lại, nho sĩ đua nhau làm thơ bằng chữ Nôm. Ngay vua Lê Thánh Tông cũng có nhiều thơ Nôm được truyền tụng trong lịch sử.
Cái tâm lý “trọng Hán khinh Nôm” có ở hầu hết các nhà nho: sáng tác về những đề tài trang trọng, nghiêm chỉnh thì dùng chữ Hán, làm thơ để chơi, để mua vui thì dùng Nôm. Tuy nhiên, cùng với bước trưởng thành của chữ Nôm, vị thế của nó cũng dần thay đổi. Nguyễn Trãi hết lòng tôn trọng ngôn ngữ dân tộc, tin yêu ngôn ngữ dân tộc. Tất cả các bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi đều nói đến những cái chân thành nhất, trang nghiêm nhất: nói đến chí hướng, nói đến đạo lý, nói đến lẽ sống ở đời,… Với ý thức tự cường dân tộc, dưới thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã có một quyết sách lớn nhằm nâng cao vị thế của chữ Nôm. Tương truyền, Hồ Quý Ly đã dịch Kinh Thi, Kinh Thư ra chữ Nôm để dạy cho các cung nữ. Điều này chứng tỏ Hồ Quý Ly đã có chủ trương đưa chữ Nôm vào lãnh vực giáo dục. Rất tiếc, công cuộc cải cách của nhà Hồ bị chặn lại bởi gót giày xâm lược của nhà Minh. Nhà Minh thi hành chính sách đồng hoá rất tàn bạo. Chúng đã đốt phá các tài liệu văn hóa, sử liệu Việt, trong đó có cả những tài liệu ghi chép bằng chữ Nôm. Vì thế những tài liệu bằng chữ Nôm thời Hồ Quý Ly đều đã thất truyền.
4. Chữ quốc ngữ được các nhà truyền giáo soạn thảo từ
thế kỷ XVII với mục đích chính là truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam
và học tiếng Việt, hiểu được về đất nước và con người Việt Nam. Muốn
truyền bá đạo của mình, cần phải có phương tiện giao tiếp. Thực tế, nhân
dân Việt Nam rất ít người đọc được chữ Nôm, vì thế không thể dựa vào
chữ Nôm để truyền giáo cho người dân. Vì vậy, vấn đề đầu
tiên là phải học tiếng Việt. Các giáo sĩ phương Tây đã tạo ra một hệ
thống ký tự ghi tiếng Việt dựa trên bộ chữ cái La tinh. Những năm đầu
của thế kỷ XIX hệ thống ký tự này được gọi là chữ Quốc ngữ, mặc dù theo
nghĩa đen thì chữ Nôm cũng là chữ quốc ngữ. Từ khi xuất hiện chữ Quốc
ngữ, thế tương quan giữa các ngôn ngữ, văn tự trên diễn đàn văn hoá Việt
Nam khác với các giai đoạn trước:
- Có hai ngôn ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán,
- Với ba loại chữ viết là chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
Trong ba loại chữ viết thì chữ Hán vẫn chiếm vị trí số một, sau đó đến chữ Nôm, cuối cùng là chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, trong thời kỳ này đã nảy sinh sự tranh chấp giữa chữ Hán và chữ Nôm. Văn học chữ Nôm thời kỳ này có sự phát triển toàn diện về lượng cũng như về phẩm. Nữ sỉ thơ Nôm Hồ Xuân Hương, đại thi hào Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều bất hủ đều xuất hiện trong giai đoạn này. Không những thế, chữ Nôm không chỉ được dùng để ghi lại văn chương bình dân mà còn được dùng trong những lãnh vực khác nữa. Trong số 5038 quyển, có một số quyển viết bằng chữ Nôm. “Vận niên ca diễn âm” là một quyển sách về ảnh hưởng của thời tiết đối với mùa màng viết bằng chữ Nôm. Số sách về Đạo giáo có 163 quyển, phần lớn là loại “giáng bút“, tức là loại sách tập hợp những lời của các đồng cốt nói thay mặt các vị thần, chủ yếu viết bằng chữ Nôm. Bởi vì những tín ngưỡng đó gắn bó trước hết với người dân lao động. Những sách in đầu tiên ở Việt Nam là Kinh Phật, nhưng số kinh in lại, diễn Nôm không có bao nhiêu. Sách giáo khoa về lịch sử Việt Nam, có một cuốn bằng chữ Nôm. Về ngoại giao, cuốn “Chuyến sang Pháp của sứ bộ triều Nguyễn” viết bằng thơ lục bát. Về luật pháp, có Hoàng triều luật lệ toát yếu diễn ca bằng chữ Nôm, Dân luật Bắc Kỳ, diễn Nôm thời Vua Khải Định. Tầng lớp nho sĩ gần gũi nhân dân lao động đã dùng chữ Nôm để sáng tác văn chương, ghi chép các sự kiện xã hội, lịch sử với cách nhìn khác với cách ghi chép chính thức bằng chữ Hán, có những tác phẩm tiến bộ, chứa đựng những tư tưởng trái với quan điểm và đạo lý chính thống. Vào giai đoạn cuối của nhà Lê, nhà cầm quyền không những coi thường mà còn e ngại chữ Nôm, có những hoạt động tiêu cực đối với chữ Nôm, thậm chí còn đốt rất nhiều tài liệu về văn học viết bằng chữ Nôm. Năm 1663 đời Lê Huyền Tông, Trịnh Tạc đã yêu cầu Phạm Công Trứ viết 47 điều giáo hoá bằng chữ Hán, trong đó điều 35 chủ trương cấm đoán và phá hoại các tác phẩm Nôm. Năm 1718 lại có lệnh của Trịnh Cương như sau: “Phủ liệu vâng lời truyền cho quân dân trong nước biết rằng: phàm sách vở có quyển nào quan hệ đến sự giáo hóa trong đời, mới được khắc in và lưu hành. Lâu nay, những kẻ xấu lượm lặt bậy bạ các tạp truyện và ngôn từ thô bỉ, không phân biệt hay dở, khắc gỗ in bán, việc ấy phải nên nghiêm cấm. Từ nay nhà nào có in những sách như thế, cho trình quan đến bắt và tịch thu ván in phá hết. Năm 1760, Trịnh Doanh lại sai Nhữ Đình Toản diễn Nôm 47 điều giáo hoá ra thơ lục bát để tiện phổ biến trong dân dễ nhớ và thuộc nằm lòng.
Ngược lại, nhằm tăng cường tính tự tôn và tinh thần dân tộc, triều đại Tây Sơn của Nguyễn Huệ đã chủ trương dùng tiếng Việt và chữ Nôm trong hành chính (giấy tờ của Triều Đình), trong giáo dục, thi cử và trong tế lễ thiêng liêng. Đây là Chiếu của Bình Định Vương Nguyễn Huệ gửi cho Nguyễn Thiếp năm 1788:
“Chiếu truyền La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp khâm tri:
Ngày trước ủy cho phu tử về Nghệ An tướng địa làm đô cho kịp kỳ này hồi ngự. Sao về tới đó chưa thấy đặng việc nhỉ. Nên hãy giá hồi Phú Xuân Kinh, hưu tức sĩ tốt.
Việc chiếu ban hạ, phu tử tảo nghi dữ trấn thủ Thận cộng sự, kinh chi, doanh chi, tướng địa tu đô tại Phú Thạch hành cung sao cho hậu cận sơn, kỳ chính địa phòng tại dân cư chi gian hay là đâu cát địa khả đô, duy phu tử đạo nhãn giám định, tảo tảo tốc hành.
Uỷ cho trấn thủ Thận tảo lập cung điện, kỳ tam nguyệt nội hoàn thành, đắc tiện giá ngự. Duy phu tử vật dĩ nhàn hốt thị.
Khâm tai! Đặc chiếu.
Thái Đức thập nhất niên, lục nguyệt, sơ nhất nhật”
Trong giáo dục và thi cử, triều đại Tây Sơn quy định: Mỗi khoa thi, ở vòng ba (“đệ tam trường”), thí sinh phải làm bài bằng chữ Nôm. Tương truyền, Hoàng đế Quang Trung còn lệnh cho Nguyễn Thiếp dịch kinh, truyện ra tiếng Việt làm tài liệu giảng dạy, nhưng các bản dịch ấy đã bị mất cả.
Như ta biết, việc tế lễ trước đây, văn tế, sớ… phải viết bằng chữ
Hán, khấn bằng tiếng Hán. Nhưng trong lễ tang Hoàng đế Quang Trung,
triều đình và họ hàng nhà vua đều dùng văn tế bằng tiếng Việt, chữ Nôm
và năm bài văn tế do Phan Huy Ich làm vẫn còn được lưu truyền tới ngày
nay.
Nhà Tây Sơn chấm dứt, những cố gắng của Nguyễn Huệ nhằm khẳng định vị thế của tiếng Việt và chữ Nôm lại trở về tình trạng cũ, như trước đó.
Mặc dù chữ Quốc ngữ đã tận dụng được nhiều ưu điểm riêng, vốn có của mẫu tự La Tinh, nhưng việc xử dụng hệ thống này cũng chỉ giới hạn trong phạm vi các tài liệu tôn giáo, trong giao dịch giữa những người cùng giáo xứ, giáo đoàn. Hai thế kỷ sau khi được sáng tác, chữ Quốc ngữ đã trở thành một công cụ hữu hiệu, giúp người Pháp, quân đội Pháp xâm lược và chia đất nước Việt Nam thành ba kỳ. Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ.
5. Dưới thời cai trị của thực dân Pháp (1861–1945), trên diễn đàn văn hoá Việt Nam, có ba ngôn ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt, và Hán với bốn văn tự là Pháp, Quốc ngữ, Nôm và Hán.
Sự tranh chấp giữa ba ngôn ngữ diễn ra theo chiều hướng tiếng Pháp vươn lên chiếm vị thế số một, vai trò tiếng Hán ngày càng giảm, vị thế của tiếng Việt càng ngày càng được đề cao. Đây cũng là thời kỳ thay thế dần chữ Hán và chữ Nôm bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ.
Chính sách của nhà cầm quyền thực dân Pháp đối với Việt Nam là đồng hoá về ngôn ngữ và văn hoá. Mọi quyết sách đưa ra đều nhằm mục đích cuối cùng và tối thượng là làm cho người Việt Nam chấp nhận xử dụng tiếng Pháp, chữ Pháp; chấp nhận văn hoá, chính trị Pháp; lấy tiếng Pháp thay thế tiếng Hán trên toàn cõi Việt Nam, hạn chế tới mức tối đa ảnh hưởng của văn hoá Hán đối với Việt Nam.
Etienne Aymonier, một công sứ Pháp ở Bình Thuận, năm 1886, đã viết: “Chúng ta phải gieo rắc vào người An Nam rằng cái nhu cầu hiểu biết một ngôn ngữ bác học, một ngôn ngữ cấp cao; việc không thể chối cãi được là sự học hỏi tiếng Pháp phải chính thức thay thế sự học hỏi tiếng Trung Hoa”. Năm 1890, ông còn viết: “Thực ra, vấn đề được đặt ra là thay thế trong chương trình dạy chính thức, tiếng Trung Hoa, hiện nay được dạy đến tận các thôn quê, bằng tiếng Pháp, ngôn ngữ của những kẻ đi chinh phục với hậu quả được lường trước là sự xử dụng ngôn ngữ này sẽ lan ra ngày càng rộng lớn”. Ông nguyện ước:
– “Chương trình dạy chính thức ở Nam Kỳ thuộc Pháp sẽ được đặt cơ sở trong một chừng mực tối đa có thể được, trên sự học hỏi tiếng Pháp.
– Trên toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp, chính quyền sẽ cho nghiên cứu các phương tiện để thúc đẩy tiếng Pháp…
– Chớ nên dạy tiếng Pháp riêng cho hàng thân hào, cho giới lãnh đạo, mà phải nhắm vào những đứa trẻ của dân thường, con gái lẫn con trai. Tốt hơn là nhắm vào từng nhóm làng xã, rộng khắp, trước tiên là ở những vùng phụ cận những trung tâm Âu Tây, hay trong những làng Thiên Chúa Giáo, ở tất cả những nơi mà thiện chí được bộc lộ. Đó là cách được gọi là cắm ngôn ngữ vào đất bằng cách cho nó bắt rễ“
Thực tế nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam đã dùng tiếng Pháp, chữ Pháp trong văn kiện, giấy tờ của bộ máy cai trị ; tăng cường việc giảng dạy tiếng Pháp trong nhà trường, hạn chế vai trò của tiếng Hán và chữ Hán. Theo Nguyễn Phú Phong, việc dạy tiếng Pháp cho người Việt Nam được bắt đầu khởi sự năm 1866 nhưng vẫn còn nằm trong tay các giáo sĩ và giáo hội, chính quyền thuộc địa trợ cấp cho các trường học do giáo hội tổ chức. Ngày 21-12-1917, Toàn quyền Albert Saraut ký Nghị định Học chính tổng quy (Règlement général de l’ instruction publique) và đăng lên công báo ngày 10-4-1918. Học chính quy định đã thay đổi thi Hương thi Hội: Năm 1916 bãi bỏ các kỳ thi Hương và năm 1919 thì thi Hội cũng bị bãi bỏ. Học chính quy định việc dạy tiếng Pháp và môn Hán tự như sau:
– Dạy tiếng Pháp (tập đọc, chánh tả, học mẹo, làm văn.v.v...) ở lớp nhì và lớp nhất, mỗi tuần ít nhất là 12 giờ.
– Hán tự mỗi tuần lễ chỉ dạy 1 giờ rưỡi vào sáng thứ năm mà thôi. Lại thêm chỉ thị: “Dạy Hán tự phải theo chương trình nhà nước. Buổi dạy Hán tự, giáo viên kiêm đốc học nhà trường phải có mặt ở lớp để giữ kỷ luật, không nên để thầy đồ dạy một mình”.
Muốn truyền bá tiếng Pháp và văn hoá Pháp, nhằm củng cố nền thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, nhà cầm quyền Pháp buộc phải dùng tiếng Việt làm phương tiện chuyển ngữ. Vì thế, song song với việc dạy tiếng Pháp cho người Việt thì việc dạy tiếng Việt cho các viên chức hành chính Pháp cũng được đặt ra. Năm 1861, một trường dạy tiếng Việt được thiết lập ở Sài Gòn để đào tạo những viên thông ngôn người Pháp. Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ đều là những văn tự ghi tiếng nói của người Việt Nam, nhưng chữ Quốc ngữ rất gần chữ Pháp, lại rất tiện lợi, dễ học, dễ nhớ hơn nhiều so với chữ Nôm nên ngưòi Pháp đã chọn chữ Quốc ngữ làm phương tiện dạy học tiếng Việt. Chính nhờ thế mà chữ Quốc ngữ vốn chỉ được dùng hạn chế trong phạm vi tôn giáo, trong giao dịch giữa các giáo dân đã dần dần trở thành một phương tiện giáo dục chung. Thực dân Pháp cho phép dạy chữ quốc ngữ và tiếng Việt trong trường học và cho ra báo bằng chữ quốc ngữ. Ngày 17-11-1874, Dupré ra quyết định tổ chức lại hoàn toàn nền giáo dục quốc dân. Các trường làng dạy chữ Hán bị bãi bỏ hoặc sáp nhập vào trường ở quận lỵ, biến thành một trường duy nhất dạy chữ quốc ngữ.
- Năm 1896, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cho thành lập một trường Pháp-Việt ở Huế, gọi là Trường Quốc học Huế.
- Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương đặt thêm một kỳ thi phụ cho khoa thi Hương trường thi Nam Định. Môn thi gồm năm bài tiếng Pháp: viết tập, chính tả, dịch Pháp ra Việt, vvấn đáp, đọc và dịch miệng (hệ số 5); chính tả tiếng Việt (hệ số 3); bài dịch từ Hán văn ra tiếng Việt (hệ số 4). Ai đã đỗ tú tài, cử nhân kỳ thi Hương chính mà còn đỗ cả kỳ thi phụ sẽ được ưu tiên chọn ra làm quan. Năm 1904, Pháp cho thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp -Việt ở Bắc Kỳ. Ngay từ năm 1865, chính quyền Pháp ở Nam Kỳ đã phát hành tờ Gia Định thời báo để thực hiện chủ trương dùng chữ Quốc ngữ, in tiếng Việt thay thế chữ Nôm. Năm 1917, Báo Nam Phong ra đời. Ngay ở trang đầu ghi rõ:” Mục đích báo Nam Phong là chủ trương khai hóa của nhà nước, viết những bài bằng quốc văn, hán văn, pháp văn, để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An Nam, truyền bá các khoa học của Tây phương, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp, bảo tồn cái quốc hồn, quốc túy của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp người An Nam trong trường kinh tế. Báo Nam Phong lại chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An Nam”. Về hành chính, một công văn năm 1910 của Khâm sứ Bắc Kỳ định rằng tất cả các văn bản dùng cho việc công bố như nghị định, quyết định, lệnh, chỉ thị, phán quyết, phải được viết bằng quốc ngữ. Công văn này cũng nói thêm rằng việc dùng quốc ngữ phải áp dụng cho thư tín thường lệ giữa các quan triều Nguyễn và chính quyền Pháp, và cho các thông báo của các quan lại gửi đến người dân. Năm 1909, ở Hà Nội có thành lập một Hội thân hữu Pháp Việt để phổ biến và quảng bá chữ quốc ngữ. Hội này còn có tên là Bác Văn Hội nhắm đến những mục đích sau đây:
– Cho ra mắt những tác phẩm văn học An Nam viết bằng chữ khối vuông (chữ nho hay chữ nôm) bằng cách dịch ra quốc ngữ hay tiếng Pháp;
– Dịch ra quốc ngữ những sản phẩm của tri thức Pháp về những môn khoa học, nghệ thuật, luật, kinh tế chính trị, văn học, với dụng ý là ổn định… ngữ nghĩa các từ trong tiếng nói của xứ An Nam.
Mặc dù người Pháp chủ trương xử dụng chữ Quốc ngữ và tiếng Việt làm chuyển ngữ nhưng với thái độ dè dặt. Trước 1945, tiếng Việt chỉ được dùng vào công việc giáo dục chủ yếu ở lớp đồng ấu (lớp Một ngày nay), còn từ lớp dự bị đến lớp sơ đẳng (tương đương với lớp Hai và lớp Ba ngày nay), học sinh phải theo chế độ song ngữ Việt–Pháp; từ năm thứ tư đến hết năm thứ sáu tiểu học, tiếng Pháp đã chiếm địa vị áp đảo; từ cấp trung học trở lên, tiếng Pháp chi phối hoàn toàn. Lý do là thực dân Pháp muốn tiếng Pháp chiếm vị trí độc tôn. Lúc đầu thì lấy lý do “vì những thứ chữ như chữ Quốc ngữ, (…) đã thành ra văn tự gì có tiếng trong thế giới đâu, vả ai cũng biết rằng hãy còn khuyết điểm nhiều lắm, chưa có đủ những danh từ về khoa học để diễn giải những môn học mới của phương Tây”. Về sau, khi tiếng Việt và chữ Quốc ngữ đã phát triển thì nhiều người Pháp lại e sợ sức mạnh tiềm ẩn của chữ Quốc ngữ, nó có thể trở thành một công cụ để thống nhất tiếng Việt, thống nhất người Việt chống lại tiếng Pháp, người Pháp.
Một số trí thức Việt Nam đã cực lực chống lại các chính sách ngôn ngữ của nhà cầm quyền Pháp. Họ quan niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang, là công cụ truyền bá đạo thiên chúa, không phải là đạo gốc của dân tộc. Họ muốn duy trì học chữ Hán bởi vì học chữ Hán là được giáo dục về luân lý về lịch sử, còn học chữ Quốc ngữ thì chỉ như một trò chơi, khi người ta biết đọc biết viết chữ Quốc ngữ người ta không biết gì cả. Với quan niệm như vậy, các trí thức yêu nước, chống Pháp đều sáng tác bằng chữ Nôm. Năm 1867, Nguyễn Trường Tộ chính thức đề nghị triều đình Huế xử dụng chữ Nôm, đề nghị này làm cho nhà cầm quyền chú ý đến chữ Nôm, song sự chú ý đó chỉ là để chống lại việc tiếp tục xử dụng chữ Hán tại triều đình Huế chứ không phải là sự chống lại việc xử dụng chữ Quốc ngữ.
Những trí thức có tinh thần dân tộc, muốn hiện đại hoá đất nước đã sớm nhận ra vai trò của chữ Quốc ngữ. Bởi vì công việc hiện đại hoá cần phải có sự thay đổi mà sự thay đổi trước tiên là sự thay đổi về văn tự. Cần phải dạy trẻ biết đọc biết viết tiếng mẹ đẻ và chỉ có việc học tập bằng tiếng mẹ đẻ mới đem lại hiệu quả thiết thực mà thôi. Cuối thế kỷ XIX, các trí thức Nam Kỳ như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản, v.v… là những người đi đầu trong chủ trương truyền bá chữ quốc ngữ và phát triển tiếng Việt. Đầu thế kỷ XX ở Miền Bắc, hoạt động của Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) cũng đã dấy lên phong trào học chữ quốc ngữ, coi chữ quốc ngữ là phương tiện khai hoá quốc dân. Các cụ khẳng định:
Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách các nước, sách Chi Na
Chữ nào chữ ấy dịch ra cho tường.
Trong Văn minh tân học sách của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết: “Người trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên để trong thời gian một vài tháng, đàn bà, trẻ con đều biết chữ và người ta có thể dùng Quốc ngữ để ghi việc đời xưa và chép việc đời nay… Đó thực là bước đầu tiên để mở mang trí khôn vậy”.
Tiếp đó, năm 1938 Hội truyền bá chữ Quốc ngữ được thành lập và hoạt động của hội này đã có tác dụng to lớn trong việc xoá nạn mù chữ cho nhân dân. Theo số liệu của UNESCO năm 1984, thì vào năm 1938, Việt Nam có khoảng 95% dân số mù chữ. Tính đến năm 1945, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ đã giúp cho 70.000 người xóa nạn mù chữ.
Dù xu hướng chính trị không giống nhau của các thành phần đảng phái, nhưng tất cả những hoạt động báo chí và văn học bằng chữ quốc ngữ trước năm 1945 đều có tác dụng truyền bá chữ quốc ngữ và phát triển tiếng Việt: Phía thực dân Pháp thì xem chữ Quốc ngữ là công cụ hữu hiệu để đồng hoá dân tộc Việt Nam, phía những sĩ phu yêu nước Việt Nam thì kẻ trước người sau cũng đều nhận thấy chữ Quốc ngữ là vũ khí sắc bén trong công cuộc phổ biến tân học, truyền bá tư tưởng yêu nước tiến tới giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho nước nhà. (Nhưng khi độc lập thì VM cướp chính quyền trong tay người Việt Quốc Gia).
2. Từ năm 939, Việt Nam giành được độc lập từ tay người Hán. Do nhu cầu phải đua tài với Trung Hoa để củng cố độc lập văn hoá, Việt Nam có nhu cầu tiếp nhận văn hoá Hán. Từ đó, việc học chữ Hán có quy mô chỉ bắt đầu từ thời độc lập. Về vấn đề này, chúng ta không quên công lao của các vị vua khai quốc thời Lý–Trần. Khi đất nước giành được độc lập, định hướng căn bản về ngôn ngữ văn tự là: tiếp tục dùng chữ Hán, coi đó là nền văn tự chính thức của nhà nước. Căn cứ vào những tài liệu còn lưu giữ được.
- Năm 1018 vua Lý Thái Tổ sai Nguyễn Đạo Thành và Phạm Hạc sang Tàu lấy Kinh Tam Tạng đem về để vào Kho Đại Hưng.
- Năm 1075 vua Lý Nhân Tông mở Khoa thi Tam trường để tuyển người ra làm quan, năm sau vua lập Quốc Tử Giám, tổ chức giảng dạy.
- Năm 1086 Vua lại mở khoa thi chọn người vào Hàn Lâm Viện. Theo Nguyễn Tài Cẩn, “Tri thức Hán học của người Việt ở giai đoạn nhà Ngô, Đinh, Lê là một sản phẩm còn lưu lại của chế độ Bắc thuộc, còn tri thức Hán học của người Việt từ đời Lý trở về sau lại là sản phẩm có chủ đích với ý thức của một triều đình nước Việt độc lập. Sự định hướng này làm cho Việt Nam đi hẳn vào phạm trù văn hoá Hán, đứng bên cạnh Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản. Về mặt ngôn ngữ, sự định hướng này làm cho tiếng Việt đi xa dần các ngôn ngữ của bà con sắc tộc khác.vốn cùng sống trên một lãnh thổ.
Nhà Trần và các triều đại tiếp theo vẫn tiếp tục sự nghiệp của nhà Lý, cũng tổ chức học hành thi cử bằng chữ Hán, cũng sáng tác bằng chữ Hán.
– Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói của mình.
– Tiếng Việt đã tiếp nhận các yếu tố Hán Việt, để rồi Việt hoá chúng làm phong phú kho từ vựng của mình.
– Hình thành cách đọc Hán Việt, một cách đọc chữ Hán riêng của người Việt Nam.
Cách đọc Hán Việt là cách đọc chữ Hán ở Việt Nam của người Việt Nam. Cách đọc đó phản ánh dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường được dạy và học ở Việt Nam lúc bấy giờ. Tất nhiên so với dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường thì cách đọc Hán Việt cũng đã được Việt hoá ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt thời đó. Âm Hán Việt chịu ảnh hưởng của phương ngữ tiếng Hán. Các tác giả cho rằng tại vùng giáp Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay, trong thời cổ, từng có một phương ngữ Hán quyền uy, đó là phương ngữ Quảng Tín. Trong hơn 300 năm kể từ năm 106 trước công nguyên cho đến năm 217, Quảng Tín luôn là trụ sở của Bộ Thứ Sử Giao Chỉ (về sau là Bộ Thứ Sử Giao Châu), là trung tâm chính trị, văn hoá của Lĩnh Nam. Ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam ở trong nước Việt Nam, thuộc về sự cai quản của Bộ Thứ Sử Giao Chỉ, Việt Nam chịu ảnh hưởng của trung tâm chính trị, văn hoá thời bấy giờ là điều tất nhiên. Trong thời gian Sĩ Nhiếp làm Thái Thú Giao Chỉ, âm Hán mà người Việt học không phải là âm Trung Nguyên, mà là âm của một phương ngữ nào đó lúc bấy giờ. Các tác giả khẳng định phương ngữ Hán này phải là phương ngữ Quảng Tín. Bản thân Sĩ Nhiếp chính là người Quảng Tín Xương Ngô. Quảng Tín lại là phương ngữ quyền uy thời kỳ đó, dạy học sinh Việt Nam bằng phương ngữ Quảng Tín cũng là điều bình thường. Vì trung tâm chính trị Lĩnh Nam di chuyển sang phía đông [năm 217 Tôn Quyền dời trung tâm chính trị Lĩnh Nam từ Quảng Tín Xương Ngô đến Phiên Ngung (thành phố Quảng Châu ngày nay) Nam Hải] và theo di chuyển của người Hán, phương ngữ Quảng Tín phân hoá dần, cho nên hình thành đối ứng không đồng đều về đặc trưng ngữ âm giữa âm Hán Việt và mấy phương ngữ Hán hiện đại.
3. Trên cơ sở của chữ Hán, dựa vào nguyên tắc cấu tạo chữ Hán, người Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm, một thứ chữ ghi lại tiếng nói của dân tộc. Ban đầu, chữ Nôm mới chỉ là những ký tự dùng để phiên âm các từ ngữ nước ngoài, những địa danh, tên người ở Việt Nam mà vốn chữ Hán không thể hiện được. Khi hệ thống văn tự Nôm được hình thành và việc sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm đã trở thành phong trào thì có sự phân công giữa chữ Hán và chữ Nôm về mặt chức năng: chữ Hán dùng trong hành chính, giáo dục, trong giao tiếp triều chính, còn chữ Nôm thì dùng trong giao tiếp, văn chương bình dân. Theo Phan Huy Chú, Vua Lê Thánh Tông trị vì 38 năm, mở 12 kỳ thi, lấy 501 tiến sĩ, trong số đó có 9 trạng nguyên. Tuy coi trọng chữ Hán hơn chữ Nôm, nhưng phong trào sáng tác bằng chữ Nôm vẫn phát triển mạnh. Quan lại, nho sĩ đua nhau làm thơ bằng chữ Nôm. Ngay vua Lê Thánh Tông cũng có nhiều thơ Nôm được truyền tụng trong lịch sử.
Cái tâm lý “trọng Hán khinh Nôm” có ở hầu hết các nhà nho: sáng tác về những đề tài trang trọng, nghiêm chỉnh thì dùng chữ Hán, làm thơ để chơi, để mua vui thì dùng Nôm. Tuy nhiên, cùng với bước trưởng thành của chữ Nôm, vị thế của nó cũng dần thay đổi. Nguyễn Trãi hết lòng tôn trọng ngôn ngữ dân tộc, tin yêu ngôn ngữ dân tộc. Tất cả các bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi đều nói đến những cái chân thành nhất, trang nghiêm nhất: nói đến chí hướng, nói đến đạo lý, nói đến lẽ sống ở đời,… Với ý thức tự cường dân tộc, dưới thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã có một quyết sách lớn nhằm nâng cao vị thế của chữ Nôm. Tương truyền, Hồ Quý Ly đã dịch Kinh Thi, Kinh Thư ra chữ Nôm để dạy cho các cung nữ. Điều này chứng tỏ Hồ Quý Ly đã có chủ trương đưa chữ Nôm vào lãnh vực giáo dục. Rất tiếc, công cuộc cải cách của nhà Hồ bị chặn lại bởi gót giày xâm lược của nhà Minh. Nhà Minh thi hành chính sách đồng hoá rất tàn bạo. Chúng đã đốt phá các tài liệu văn hóa, sử liệu Việt, trong đó có cả những tài liệu ghi chép bằng chữ Nôm. Vì thế những tài liệu bằng chữ Nôm thời Hồ Quý Ly đều đã thất truyền.
- Có hai ngôn ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán,
- Với ba loại chữ viết là chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
Trong ba loại chữ viết thì chữ Hán vẫn chiếm vị trí số một, sau đó đến chữ Nôm, cuối cùng là chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, trong thời kỳ này đã nảy sinh sự tranh chấp giữa chữ Hán và chữ Nôm. Văn học chữ Nôm thời kỳ này có sự phát triển toàn diện về lượng cũng như về phẩm. Nữ sỉ thơ Nôm Hồ Xuân Hương, đại thi hào Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều bất hủ đều xuất hiện trong giai đoạn này. Không những thế, chữ Nôm không chỉ được dùng để ghi lại văn chương bình dân mà còn được dùng trong những lãnh vực khác nữa. Trong số 5038 quyển, có một số quyển viết bằng chữ Nôm. “Vận niên ca diễn âm” là một quyển sách về ảnh hưởng của thời tiết đối với mùa màng viết bằng chữ Nôm. Số sách về Đạo giáo có 163 quyển, phần lớn là loại “giáng bút“, tức là loại sách tập hợp những lời của các đồng cốt nói thay mặt các vị thần, chủ yếu viết bằng chữ Nôm. Bởi vì những tín ngưỡng đó gắn bó trước hết với người dân lao động. Những sách in đầu tiên ở Việt Nam là Kinh Phật, nhưng số kinh in lại, diễn Nôm không có bao nhiêu. Sách giáo khoa về lịch sử Việt Nam, có một cuốn bằng chữ Nôm. Về ngoại giao, cuốn “Chuyến sang Pháp của sứ bộ triều Nguyễn” viết bằng thơ lục bát. Về luật pháp, có Hoàng triều luật lệ toát yếu diễn ca bằng chữ Nôm, Dân luật Bắc Kỳ, diễn Nôm thời Vua Khải Định. Tầng lớp nho sĩ gần gũi nhân dân lao động đã dùng chữ Nôm để sáng tác văn chương, ghi chép các sự kiện xã hội, lịch sử với cách nhìn khác với cách ghi chép chính thức bằng chữ Hán, có những tác phẩm tiến bộ, chứa đựng những tư tưởng trái với quan điểm và đạo lý chính thống. Vào giai đoạn cuối của nhà Lê, nhà cầm quyền không những coi thường mà còn e ngại chữ Nôm, có những hoạt động tiêu cực đối với chữ Nôm, thậm chí còn đốt rất nhiều tài liệu về văn học viết bằng chữ Nôm. Năm 1663 đời Lê Huyền Tông, Trịnh Tạc đã yêu cầu Phạm Công Trứ viết 47 điều giáo hoá bằng chữ Hán, trong đó điều 35 chủ trương cấm đoán và phá hoại các tác phẩm Nôm. Năm 1718 lại có lệnh của Trịnh Cương như sau: “Phủ liệu vâng lời truyền cho quân dân trong nước biết rằng: phàm sách vở có quyển nào quan hệ đến sự giáo hóa trong đời, mới được khắc in và lưu hành. Lâu nay, những kẻ xấu lượm lặt bậy bạ các tạp truyện và ngôn từ thô bỉ, không phân biệt hay dở, khắc gỗ in bán, việc ấy phải nên nghiêm cấm. Từ nay nhà nào có in những sách như thế, cho trình quan đến bắt và tịch thu ván in phá hết. Năm 1760, Trịnh Doanh lại sai Nhữ Đình Toản diễn Nôm 47 điều giáo hoá ra thơ lục bát để tiện phổ biến trong dân dễ nhớ và thuộc nằm lòng.
Ngược lại, nhằm tăng cường tính tự tôn và tinh thần dân tộc, triều đại Tây Sơn của Nguyễn Huệ đã chủ trương dùng tiếng Việt và chữ Nôm trong hành chính (giấy tờ của Triều Đình), trong giáo dục, thi cử và trong tế lễ thiêng liêng. Đây là Chiếu của Bình Định Vương Nguyễn Huệ gửi cho Nguyễn Thiếp năm 1788:
“Chiếu truyền La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp khâm tri:
Ngày trước ủy cho phu tử về Nghệ An tướng địa làm đô cho kịp kỳ này hồi ngự. Sao về tới đó chưa thấy đặng việc nhỉ. Nên hãy giá hồi Phú Xuân Kinh, hưu tức sĩ tốt.
Việc chiếu ban hạ, phu tử tảo nghi dữ trấn thủ Thận cộng sự, kinh chi, doanh chi, tướng địa tu đô tại Phú Thạch hành cung sao cho hậu cận sơn, kỳ chính địa phòng tại dân cư chi gian hay là đâu cát địa khả đô, duy phu tử đạo nhãn giám định, tảo tảo tốc hành.
Uỷ cho trấn thủ Thận tảo lập cung điện, kỳ tam nguyệt nội hoàn thành, đắc tiện giá ngự. Duy phu tử vật dĩ nhàn hốt thị.
Khâm tai! Đặc chiếu.
Thái Đức thập nhất niên, lục nguyệt, sơ nhất nhật”
Trong giáo dục và thi cử, triều đại Tây Sơn quy định: Mỗi khoa thi, ở vòng ba (“đệ tam trường”), thí sinh phải làm bài bằng chữ Nôm. Tương truyền, Hoàng đế Quang Trung còn lệnh cho Nguyễn Thiếp dịch kinh, truyện ra tiếng Việt làm tài liệu giảng dạy, nhưng các bản dịch ấy đã bị mất cả.
Nhà Tây Sơn chấm dứt, những cố gắng của Nguyễn Huệ nhằm khẳng định vị thế của tiếng Việt và chữ Nôm lại trở về tình trạng cũ, như trước đó.
Mặc dù chữ Quốc ngữ đã tận dụng được nhiều ưu điểm riêng, vốn có của mẫu tự La Tinh, nhưng việc xử dụng hệ thống này cũng chỉ giới hạn trong phạm vi các tài liệu tôn giáo, trong giao dịch giữa những người cùng giáo xứ, giáo đoàn. Hai thế kỷ sau khi được sáng tác, chữ Quốc ngữ đã trở thành một công cụ hữu hiệu, giúp người Pháp, quân đội Pháp xâm lược và chia đất nước Việt Nam thành ba kỳ. Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ.
5. Dưới thời cai trị của thực dân Pháp (1861–1945), trên diễn đàn văn hoá Việt Nam, có ba ngôn ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt, và Hán với bốn văn tự là Pháp, Quốc ngữ, Nôm và Hán.
Sự tranh chấp giữa ba ngôn ngữ diễn ra theo chiều hướng tiếng Pháp vươn lên chiếm vị thế số một, vai trò tiếng Hán ngày càng giảm, vị thế của tiếng Việt càng ngày càng được đề cao. Đây cũng là thời kỳ thay thế dần chữ Hán và chữ Nôm bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ.
Chính sách của nhà cầm quyền thực dân Pháp đối với Việt Nam là đồng hoá về ngôn ngữ và văn hoá. Mọi quyết sách đưa ra đều nhằm mục đích cuối cùng và tối thượng là làm cho người Việt Nam chấp nhận xử dụng tiếng Pháp, chữ Pháp; chấp nhận văn hoá, chính trị Pháp; lấy tiếng Pháp thay thế tiếng Hán trên toàn cõi Việt Nam, hạn chế tới mức tối đa ảnh hưởng của văn hoá Hán đối với Việt Nam.
Etienne Aymonier, một công sứ Pháp ở Bình Thuận, năm 1886, đã viết: “Chúng ta phải gieo rắc vào người An Nam rằng cái nhu cầu hiểu biết một ngôn ngữ bác học, một ngôn ngữ cấp cao; việc không thể chối cãi được là sự học hỏi tiếng Pháp phải chính thức thay thế sự học hỏi tiếng Trung Hoa”. Năm 1890, ông còn viết: “Thực ra, vấn đề được đặt ra là thay thế trong chương trình dạy chính thức, tiếng Trung Hoa, hiện nay được dạy đến tận các thôn quê, bằng tiếng Pháp, ngôn ngữ của những kẻ đi chinh phục với hậu quả được lường trước là sự xử dụng ngôn ngữ này sẽ lan ra ngày càng rộng lớn”. Ông nguyện ước:
– “Chương trình dạy chính thức ở Nam Kỳ thuộc Pháp sẽ được đặt cơ sở trong một chừng mực tối đa có thể được, trên sự học hỏi tiếng Pháp.
– Trên toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp, chính quyền sẽ cho nghiên cứu các phương tiện để thúc đẩy tiếng Pháp…
– Chớ nên dạy tiếng Pháp riêng cho hàng thân hào, cho giới lãnh đạo, mà phải nhắm vào những đứa trẻ của dân thường, con gái lẫn con trai. Tốt hơn là nhắm vào từng nhóm làng xã, rộng khắp, trước tiên là ở những vùng phụ cận những trung tâm Âu Tây, hay trong những làng Thiên Chúa Giáo, ở tất cả những nơi mà thiện chí được bộc lộ. Đó là cách được gọi là cắm ngôn ngữ vào đất bằng cách cho nó bắt rễ“
Thực tế nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam đã dùng tiếng Pháp, chữ Pháp trong văn kiện, giấy tờ của bộ máy cai trị ; tăng cường việc giảng dạy tiếng Pháp trong nhà trường, hạn chế vai trò của tiếng Hán và chữ Hán. Theo Nguyễn Phú Phong, việc dạy tiếng Pháp cho người Việt Nam được bắt đầu khởi sự năm 1866 nhưng vẫn còn nằm trong tay các giáo sĩ và giáo hội, chính quyền thuộc địa trợ cấp cho các trường học do giáo hội tổ chức. Ngày 21-12-1917, Toàn quyền Albert Saraut ký Nghị định Học chính tổng quy (Règlement général de l’ instruction publique) và đăng lên công báo ngày 10-4-1918. Học chính quy định đã thay đổi thi Hương thi Hội: Năm 1916 bãi bỏ các kỳ thi Hương và năm 1919 thì thi Hội cũng bị bãi bỏ. Học chính quy định việc dạy tiếng Pháp và môn Hán tự như sau:
– Dạy tiếng Pháp (tập đọc, chánh tả, học mẹo, làm văn.v.v...) ở lớp nhì và lớp nhất, mỗi tuần ít nhất là 12 giờ.
– Hán tự mỗi tuần lễ chỉ dạy 1 giờ rưỡi vào sáng thứ năm mà thôi. Lại thêm chỉ thị: “Dạy Hán tự phải theo chương trình nhà nước. Buổi dạy Hán tự, giáo viên kiêm đốc học nhà trường phải có mặt ở lớp để giữ kỷ luật, không nên để thầy đồ dạy một mình”.
Muốn truyền bá tiếng Pháp và văn hoá Pháp, nhằm củng cố nền thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, nhà cầm quyền Pháp buộc phải dùng tiếng Việt làm phương tiện chuyển ngữ. Vì thế, song song với việc dạy tiếng Pháp cho người Việt thì việc dạy tiếng Việt cho các viên chức hành chính Pháp cũng được đặt ra. Năm 1861, một trường dạy tiếng Việt được thiết lập ở Sài Gòn để đào tạo những viên thông ngôn người Pháp. Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ đều là những văn tự ghi tiếng nói của người Việt Nam, nhưng chữ Quốc ngữ rất gần chữ Pháp, lại rất tiện lợi, dễ học, dễ nhớ hơn nhiều so với chữ Nôm nên ngưòi Pháp đã chọn chữ Quốc ngữ làm phương tiện dạy học tiếng Việt. Chính nhờ thế mà chữ Quốc ngữ vốn chỉ được dùng hạn chế trong phạm vi tôn giáo, trong giao dịch giữa các giáo dân đã dần dần trở thành một phương tiện giáo dục chung. Thực dân Pháp cho phép dạy chữ quốc ngữ và tiếng Việt trong trường học và cho ra báo bằng chữ quốc ngữ. Ngày 17-11-1874, Dupré ra quyết định tổ chức lại hoàn toàn nền giáo dục quốc dân. Các trường làng dạy chữ Hán bị bãi bỏ hoặc sáp nhập vào trường ở quận lỵ, biến thành một trường duy nhất dạy chữ quốc ngữ.
- Năm 1896, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cho thành lập một trường Pháp-Việt ở Huế, gọi là Trường Quốc học Huế.
- Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương đặt thêm một kỳ thi phụ cho khoa thi Hương trường thi Nam Định. Môn thi gồm năm bài tiếng Pháp: viết tập, chính tả, dịch Pháp ra Việt, vvấn đáp, đọc và dịch miệng (hệ số 5); chính tả tiếng Việt (hệ số 3); bài dịch từ Hán văn ra tiếng Việt (hệ số 4). Ai đã đỗ tú tài, cử nhân kỳ thi Hương chính mà còn đỗ cả kỳ thi phụ sẽ được ưu tiên chọn ra làm quan. Năm 1904, Pháp cho thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp -Việt ở Bắc Kỳ. Ngay từ năm 1865, chính quyền Pháp ở Nam Kỳ đã phát hành tờ Gia Định thời báo để thực hiện chủ trương dùng chữ Quốc ngữ, in tiếng Việt thay thế chữ Nôm. Năm 1917, Báo Nam Phong ra đời. Ngay ở trang đầu ghi rõ:” Mục đích báo Nam Phong là chủ trương khai hóa của nhà nước, viết những bài bằng quốc văn, hán văn, pháp văn, để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An Nam, truyền bá các khoa học của Tây phương, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp, bảo tồn cái quốc hồn, quốc túy của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp người An Nam trong trường kinh tế. Báo Nam Phong lại chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An Nam”. Về hành chính, một công văn năm 1910 của Khâm sứ Bắc Kỳ định rằng tất cả các văn bản dùng cho việc công bố như nghị định, quyết định, lệnh, chỉ thị, phán quyết, phải được viết bằng quốc ngữ. Công văn này cũng nói thêm rằng việc dùng quốc ngữ phải áp dụng cho thư tín thường lệ giữa các quan triều Nguyễn và chính quyền Pháp, và cho các thông báo của các quan lại gửi đến người dân. Năm 1909, ở Hà Nội có thành lập một Hội thân hữu Pháp Việt để phổ biến và quảng bá chữ quốc ngữ. Hội này còn có tên là Bác Văn Hội nhắm đến những mục đích sau đây:
– Cho ra mắt những tác phẩm văn học An Nam viết bằng chữ khối vuông (chữ nho hay chữ nôm) bằng cách dịch ra quốc ngữ hay tiếng Pháp;
– Dịch ra quốc ngữ những sản phẩm của tri thức Pháp về những môn khoa học, nghệ thuật, luật, kinh tế chính trị, văn học, với dụng ý là ổn định… ngữ nghĩa các từ trong tiếng nói của xứ An Nam.
Mặc dù người Pháp chủ trương xử dụng chữ Quốc ngữ và tiếng Việt làm chuyển ngữ nhưng với thái độ dè dặt. Trước 1945, tiếng Việt chỉ được dùng vào công việc giáo dục chủ yếu ở lớp đồng ấu (lớp Một ngày nay), còn từ lớp dự bị đến lớp sơ đẳng (tương đương với lớp Hai và lớp Ba ngày nay), học sinh phải theo chế độ song ngữ Việt–Pháp; từ năm thứ tư đến hết năm thứ sáu tiểu học, tiếng Pháp đã chiếm địa vị áp đảo; từ cấp trung học trở lên, tiếng Pháp chi phối hoàn toàn. Lý do là thực dân Pháp muốn tiếng Pháp chiếm vị trí độc tôn. Lúc đầu thì lấy lý do “vì những thứ chữ như chữ Quốc ngữ, (…) đã thành ra văn tự gì có tiếng trong thế giới đâu, vả ai cũng biết rằng hãy còn khuyết điểm nhiều lắm, chưa có đủ những danh từ về khoa học để diễn giải những môn học mới của phương Tây”. Về sau, khi tiếng Việt và chữ Quốc ngữ đã phát triển thì nhiều người Pháp lại e sợ sức mạnh tiềm ẩn của chữ Quốc ngữ, nó có thể trở thành một công cụ để thống nhất tiếng Việt, thống nhất người Việt chống lại tiếng Pháp, người Pháp.
Một số trí thức Việt Nam đã cực lực chống lại các chính sách ngôn ngữ của nhà cầm quyền Pháp. Họ quan niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang, là công cụ truyền bá đạo thiên chúa, không phải là đạo gốc của dân tộc. Họ muốn duy trì học chữ Hán bởi vì học chữ Hán là được giáo dục về luân lý về lịch sử, còn học chữ Quốc ngữ thì chỉ như một trò chơi, khi người ta biết đọc biết viết chữ Quốc ngữ người ta không biết gì cả. Với quan niệm như vậy, các trí thức yêu nước, chống Pháp đều sáng tác bằng chữ Nôm. Năm 1867, Nguyễn Trường Tộ chính thức đề nghị triều đình Huế xử dụng chữ Nôm, đề nghị này làm cho nhà cầm quyền chú ý đến chữ Nôm, song sự chú ý đó chỉ là để chống lại việc tiếp tục xử dụng chữ Hán tại triều đình Huế chứ không phải là sự chống lại việc xử dụng chữ Quốc ngữ.
Những trí thức có tinh thần dân tộc, muốn hiện đại hoá đất nước đã sớm nhận ra vai trò của chữ Quốc ngữ. Bởi vì công việc hiện đại hoá cần phải có sự thay đổi mà sự thay đổi trước tiên là sự thay đổi về văn tự. Cần phải dạy trẻ biết đọc biết viết tiếng mẹ đẻ và chỉ có việc học tập bằng tiếng mẹ đẻ mới đem lại hiệu quả thiết thực mà thôi. Cuối thế kỷ XIX, các trí thức Nam Kỳ như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản, v.v… là những người đi đầu trong chủ trương truyền bá chữ quốc ngữ và phát triển tiếng Việt. Đầu thế kỷ XX ở Miền Bắc, hoạt động của Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) cũng đã dấy lên phong trào học chữ quốc ngữ, coi chữ quốc ngữ là phương tiện khai hoá quốc dân. Các cụ khẳng định:
Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách các nước, sách Chi Na
Chữ nào chữ ấy dịch ra cho tường.
Trong Văn minh tân học sách của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết: “Người trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên để trong thời gian một vài tháng, đàn bà, trẻ con đều biết chữ và người ta có thể dùng Quốc ngữ để ghi việc đời xưa và chép việc đời nay… Đó thực là bước đầu tiên để mở mang trí khôn vậy”.
Tiếp đó, năm 1938 Hội truyền bá chữ Quốc ngữ được thành lập và hoạt động của hội này đã có tác dụng to lớn trong việc xoá nạn mù chữ cho nhân dân. Theo số liệu của UNESCO năm 1984, thì vào năm 1938, Việt Nam có khoảng 95% dân số mù chữ. Tính đến năm 1945, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ đã giúp cho 70.000 người xóa nạn mù chữ.
Dù xu hướng chính trị không giống nhau của các thành phần đảng phái, nhưng tất cả những hoạt động báo chí và văn học bằng chữ quốc ngữ trước năm 1945 đều có tác dụng truyền bá chữ quốc ngữ và phát triển tiếng Việt: Phía thực dân Pháp thì xem chữ Quốc ngữ là công cụ hữu hiệu để đồng hoá dân tộc Việt Nam, phía những sĩ phu yêu nước Việt Nam thì kẻ trước người sau cũng đều nhận thấy chữ Quốc ngữ là vũ khí sắc bén trong công cuộc phổ biến tân học, truyền bá tư tưởng yêu nước tiến tới giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho nước nhà. (Nhưng khi độc lập thì VM cướp chính quyền trong tay người Việt Quốc Gia).
Đâu Là Sự Thật Về Ngày 19-8-1945: Việt Minh Cướp Chính Quyền?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét