Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay đang trở thành một trào lưu trên thế giới, nhất là trong giới trí thức và chuyên gia. Ở các nước phương Tây, theo một thống kê chưa đầy đủ,có khoảng 5% dân số Anh và Mỹ cho biết họ ăn chay trường hay ăn chay thường xuyên. Ở Việt Nam, tuy chưa có số liệu chính thức,nhưng sự có mặt của các nhà hàng và quán ăn chay cùng lượng thực khách đông đảo cho thấy số người ăn chay đang tăng dần trong thời gian gần đây. Danh từ “ăn chay” đối với người Việt chúng ta là không ăn cá thịt trứng sửa, nhưng với người phương Tây, có đến 3 nhóm ăn chay: - Nhóm thứ nhất là ovo-lacto gồm rau, đậu, hạt, trứng và bơ sũa. - Nhóm thứ hai là lacto cũng có chế độ ăn uống như nhóm ovo-lacto, nhưng không ăn trứng. - Nhóm thứ ba là vegan, hoàn toàn không ăn động vật, có lẽ là nhóm gần như “ăn chay” theo cách của người Việt hay các tu sĩ Phật giáo đại thừa. Thời gian gần đây, qua báo chí phương Tây, một số người bày tỏ quan tâm đến sức khỏe của người ăn chay, vì họ cho rằng ăn chay có thể bất lợi cho sức khỏe của xương. Tuy nhiên, bằng chứng khoa học cho thấy ăn chay không có ảnh hưởng đến xương; ngược lại, ăn nhiều chất đạm động vật có thể là yếu tố nguy cơ của loãng xương và gãy xương. Sức khỏe của xương có lẽ phản ảnh chính xác nhất qua mật độ chất khoáng trong xương (viết tắt là MĐX) và tần số gãy xương trong một cơ thể. Nhiều nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ học trên thế giới cho thấy MĐX ở người ăn chay tương đương với MĐX ở người ăn mặn. Một vài nghiên cứu chuyên môn cho thấy không có sự khác biệt nào về MĐX giữa người ăn chay và ăn mặn. Gãy cổ xương đùi là một hệ quả nguy hiểm nhất của loãng xương, vì bệnh nhân gặp nhiều biến chứng, thậm chí sau khi bị gãy xương. Khoảng 15-20% bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nam, tử vong sau 12 tháng gãy cổ xương đùi. Nguy cơ gãy cổ xương đùi ở người ăn chay hoặc thấp hơn so với người ăn mặn. Thật vậy, một phân tích trên 34 nước trên thế giới cho thấy những nước có lượng tiêu thụ đạm động vật nhiều cũng là những nước có tỉ lệ gãy cổ xương đùi (hệ quả nguy hiểm nhất của loãng xương) so với những nước có lượng tiêu thụ đạm thấp. Đứng trên phương diện sinh học, ảnh hưởng tiêu cực của đạm động vật đến xương là điều có thể hiểu được. Sức khỏe của xương tùy thuộc vào sự cân bằng giữa acid và base. Tất cả các thức ăn phải được chuyển hóa qua thận dưới dạng acid hoặc base. Khi ăn nhiều chất đạm động vật, cơ thể hấp thu nhiều acid hơn base.Tăng hàm lượng acid cũng có nghĩa là máu và các mô trong cơ thể trở nên “chua” hơn, và để dung hòa tình trạng này, hệ thống nội tiết phải huy động calcium để đóng vai trò chất base. Vì phần lớn calcium xuất phát từ xương, cho nên khi cơ thể huy động calcium cũng có nghĩa là giảm chất khoáng trong xương, dẫn đến hệ quả giảm sức mạnh của xương, và làm cho xương dễ bị gãy. Rất nhiều nghiên cứu khoa học trong 20 năm qua đều cho thấy ăn chay có lợi cho sức khỏe, vì giảm nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến “hiện đại hóa” như tim mạch, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, và ung thư. Ăn chay, do sử dụng nhiều rau quả, thường hàm chứa ít chất béo và cholesterol hơn ăn mặn. Chất béo và cholesterol là hai yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch, đái tháo đường và ung thư. Do đó,có nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy người ăn chay ít mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường và ung thư hơn những người ăn mặn. Trong một nghiên cứu trên 47.000 người Mỹ, nhóm ăn chay có nguy cơ mắc bệnh tim mạch thấp hơn nhóm ăn mặn khoảng 20%. Ăn chay và ăn nhiều rau quả còn giảm nguy cơ tai biến mạch máu não đến 22%. Ngoài ra, ăn chay còn giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, ruột, và phổi so với chế độ ăn mặn. Một nghiên cứu khác trên 26.000 người Mỹ cho thấy người ăn chay có tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường thấp hơn người ăn mặn khoảng 25%. Vì ăn chay có chỉ số glycemic thấp, nên ăn chay còn được xem là một liệu pháp điều trị bệnh đái tháo đường. Trong một nghiên cứu lâm sàng trên 652 bệnh nhân đái tháo đường, các bác sĩ cho bệnh nhân ăn uống có rất thấp hàm lượng chất béo (dưới 10% năng lượng, tức như ăn chay), và họ ghi nhận rằng ở những bệnh nhân được điều trị bằng insulin, 40% không cần đến insulin nữa; trong số bệnh nhân điều trị do chỉ số glycemic thấp, 71% không cần tiếp tục điều trị. Trong cùng thời gian, nồng độ đường trong máu giảm 24%, cholesterol giảm 30%. Ảnh hưởng của ăn chay đến các chỉ số lâm sàng liên quan đến bệnh đái tháo đường tương đương với ảnh hưởng của các thuốc thông dụng trên thị trường. Vì ăn chay chẳng tốn kém gì nhiều, nên hiệu quả kinh tế của ăn chay có phần cao hơn so với một số thuốc điều trị bệnh đái tháo đường. Trong một nghiên cứu quan trọng về ảnh hưởng của ăn chay đến bệnh viêm thấp khớp, các nhà nghiên cứu Na Uy chia bệnh nhân thành 2 nhóm: nhóm ăn chay và nhóm ăn mặn. Sau 12 tháng theo dõi, bệnh trạng nhóm ăn chay giảm rõ rệt,trong khi nhóm ăn mặn không có thay đổi đáng kể.Dù ảnh hưởng của ăn chay đến bệnh viêm thấp khớp chưa được hiểu rõ,nhưng có thể lý giải rằng vì ăn chay hạn chế năng lượng đạm và một số chất khoáng có chức năng ức chế hệ thống miễn dịch,và ức chế hệ thống miễn dịch là một phương pháp điều trị các bệnh tự miễn,nên ăn chay có thể đem lại lợi ích cho bệnh nhân viêm thấp khớp. Nói tóm lại, bằng chứng khoa học cho thấy ăn chay có lợi cho sức khỏe.Thật ra, người ăn chay tính trung bình có tuổi thọ cao hơn người ăn mặn.Các nghiên cứu mới nhất gợi ý rằng ăn chay còn có thể là một phương pháp thực tế để điều trị bệnh đái tháo đường và viêm khớp xương. Trong vài năm gần đây, tỷ lệ béo phì trong dân số VN càng ngày càng tăng. Theo nghiên cứu dịch tễ học, tại Sài Gòn, cứ 3 người tuổi trên 40 thì có 1 người béo phì. Tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ ở Mỹ và các nước Âu châu! Béo phì là một yếu tố nguy cơ của bệnh đái tháo đường và tim mạch. Một xu hướng và cũng là một nghịch lý đáng quan tâm là ở các nước Âu Mỹ, bệnh đái tháo đường thấy ở những người lao động có thu nhập thấp, thì ở VN bệnh này tập trung ở những người giàu có với thu nhập cao. Xu hướng “Tây hóa” (như ăn uống với nhiều chất đạm động vật) có thể là một yếu tố gây nên tình trạng đáng ngại này. Đã đến lúc chúng ta nên quay về với cách ăn uống thường ngày (với gạo, rau quả) hơn là nhiều chất đạm động vật. |
«Tôi khẳng định rằng thịt không phải là thức ăn thích hợp với con người.Chúng
ta không nên sai lầm chạy theo lối sống của các loài cầm thú, nếu chúng ta tự
coi mình cao thượng hơn các loài cầm thú đó" Mohanda Gandhi
Trong thời kỳ cổ Hy Lạp và cổ La Mã, lòng từ bi và những quan niệm về sự đối
xử đạo đức luôn luôn là những nguyên động lực chủ yếu khiến một số danh
nhân khép minh trong việc thọ trì trai giới.
01. Peter Burwash
Một hôm nọ, nhà vô địch quần vợt Peter Burwash đến viếng một lò sát sanh.Khi
ra về ông đã viết những cảm nghĩ của mình trong một quyển sách nhan đề là A
Vegetarian Primer (Sách dạy ăn chay). Có đoạn ông viết: "Tôi không nỡ bóp nát
một cánh hoa mong manh. Tôi đã chơi hockey với hết sức bình sanh của mình.
Tôi cũng đã từng vùng vẫy dọc ngang trên các sân quần vợt trong những trận
thư hùng. Tôi không phải là loại người yếu đuối. Nhưng trước cảnh tượng mà tôi
đã chứng kiến tại lò sát sanh,tôi thấy mình kinh khiếp và lòng mình mềm yếu vì
thương hại"."Khi tôi rời khỏi lò sát sanh,sự tội nghiệp đã dày vò lương tâm tôi.
Tôi thầm nhủ sẽ không bao giờ có đủ can đảm đi sát hại một con vật dù lớn dù
nhỏ. Tôi hiểu rằng có những nhân vật lỗi lạc trên thế giới họp nhau để bàn cãi
về các vấn đề vật lý, kinh tế và môi sinh. Cũng có một số người có quan điểm
tán đồng với chủ thuyết ăn chay. Song điều làm cho tôi chọn lấy con đường
chay lạt không phải chạy theo chủ thuyết này hay chủ thuyết nọ mà chính vì
những cảnh dã man mà con người đã đối xử một cách tồi tệ với các loài vật
không phương tự vệ mà tôi đã tận mắt chứng kiến".
02. Pythagore
Pythagore,
Ông Pythagore, nhà toán học lừng danh trên thế giới đã từng khuyên nhủ:
"Này bạn, xin đừng làm nhơ nhớp thân thể của mình bằng những thức ăn tội
lỗi. Chúng ta đã có bắp, táo, lê, rau trái thừa thải, sữa và mật ong ngọt lịm.Quả
đất này đã cung ứng cho chúng ta những thức ăn vô tội một cách dồi dào, đã
khoản đãi chúng ta bằng những bữa tiệc không can dự vào máu. Chỉ có loài thú
này mới ăn thịt loài thú khác vì bản năng tự nhiên và vì đói.Nhưng không phải
tất cả loài thú nào cũng vậy.Bởi vì trong số đó cũng có các loài như bò, ngựa và
trừu... đều ăn cỏ".
Sử học gia Diogenes kể rằng, ông Pythagore dùng điểm tâm buổi sáng bằng
bánh mì và mật ong và dùng bữa ăn chiều với nhiều loại rau quả. Ngài cũng đã
thể hiện lòng từ bi bác ái qua những hành động thực tiễn bằng cách nhiều lần
trả tiền cho một số ngư phủ để phóng sanh những con cá mà họ đã bắt được
trở về lòng biển cả.
Ông Plutarch, triết gia người Hy Lạp nhận xét về ông Pythagore như sau: "Theo
tôi sự từ tâm là lý do chính khiến ông Pythagore kiêng thịt. Ông không nỡ nhìn
cảnh dẫy dụa và kêu rống thất thanh của những con vật khi bị người ta phanh
thây xẻ thịt. Người ta giết những con vật đó không phải vì lý do chúng là thú dữ
có khả năng nhiễu hại loài người,mà chính vì mục đích để thỏa mãn khẩu vị của
họ mà thôi. Người ta bức tử những con vật ngây thơ không móng vuốt để tự vệ
mà đáng lý ra theo luật Tạo Hóa, chúng cũng có quyền sinh tồn, bình đẳng và
hiện diện để làm đẹp quả địa cầu này như tất cả mọi loài".Ông còn nhấn mạnh:
"Nếu bảo rằng bản tính tự nhiên của loài người là ăn thịt các loài thú,thì thử hỏi
chỉ với hai bàn tay trắng do Tạo Hóa sinh ra, mà không cần đến sự trợ lực của
dao, mác, hèo, gậy, con người đã làm được gì các loài thú đó?"
03. Leonard Da Vinci
Ông Léonard Da Vinci (1452 - 1519), nhà danh họa và điêu khắc gia người Ý,
đồng thời cũng là một thi sĩ nổi tiếng trên thế giới quan niệm ăn chay là đạo
đức của con người. Sự ăn chay sẽ tránh được những tội ác về sát sinh. Ông còn
nhấn mạnh rằng những ai không biết quý trọng sự sống của những sinh vật
khác là những kẻ không đáng sống.Cơ thể của những người ăn mặn không khác
gì những bãi tha ma để chôn vùi xác chết các thú vật mà họ đã ăn vào. Trong
các quyển vỡ nhật ký, ông thường viết đầy những câu danh ngôn về lòng từ bi
bác ái và luôn luôn có những hành động qúy thương các loài sinh vật khác.
04. Jean Jacques Roussean
Ông Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778), triết gia và là một văn hào người
Pháp đã có những tác phẫm giá trị về mặt tư tưởng đã ảnh hưởng sâu xa đến
nền văn học và cuộc cách mạng lịch sử tại quốc gia này.
Ông là người chủ trương bênh vực sự hiện hữu của thiên nhiên và cổ xúy sự ăn
chay. Ông nhận xét rằng phần đông những loài thú ăn thịt có bản tính hung tợn
hơn những loài thú ăn cỏ.Và dĩ nhiên những người ăn chay trường sẽ hiền từ
hơn những người ăn mặn. Ông còn đề nghị những người hành nghề đồ tể không
được mời vào làm bồi thẩm đoàn tại các tòa án.
05. Adam Smith
Kinh tế gia Adam Smith (1723 - 1790), trong quyển The Wealth of Nations xuất
bản vào năm 1776 đã khuyến khích loài người ăn chay và đã thuyết minh về sự
lợi ích của việc thọ trì trai giới.Ông bảo rằng việc ăn mặn xét ra không cần thiết
cho nhu cầu dinh dưỡng của con người. Chúng ta đã có ngũ cốc, rau quả, phó
mát, dưa và dầu thực vật. Đó là những thức ăn cung cấp cho chúng ta những
chất dinh dưỡng dồi dào. Thịt đối với chúng ta sẽ không nghĩa lý gì nếu chúng
ta ăn chay đầy đủ và đúng cách.
06. Benjamin Franklin
Cùng một quan niệm trên, ông Benjamin Franklin (1706 - 1790), một khoa học
gia và là một chính trị gia nổi tiếng của Hoa Kỳ, người đã bắt đầu ăn chay từ
năm 16 tuổi đã bảo rằng nhờ ăn chay mà cơ thể của ông được trong sạch, tinh
thần của ông được minh mẫn, trí óc của ông được tiến bộ và sự hiểu biết của
ông được nhanh chóng hơn. Trong một bài tự thuật, ông có bình phẩm những
người ăn mặn là những kẻ cố sát.
07. Percy Bysshe Selley
Thi sĩ Percy Bysshe Shelley (1792 - 1822) cũng là người ăn chay trường. Ông
chủ trương chống báng việc sát hại súc vật để cung cấp thịt cho dân chúng tiêu
thụ.Ông đã có lòng vị tha và bắt đầu ăn chay trường từ hồi còn là một sinh viên
tại trường Đại học Oxford. Sau này ông thành hôn với bà Harriet. Cả hai vợ
chồng đều chấp nhận một cuộc sống chay lạt thanh khiết.Trong một bức thư đề
ngày 14-3-1812, bà Harriet đã tâm sự với một người bạn: "Vợ chồng chúng tôi
đã kiêng thịt và ăn chay trường như ông Pythagore vậy". Một số thi phẩm của
ông Shelley thường mang tính chất vị tha bác ái, khuyên nhủ mọi người tránh
việc sát sanh, nên ăn chay và sống một cuộc đời thanh cao tốt đẹp.
08. Leon Tolstoi
Văn hào nước Nga Léon Tolstoi (1828 - 1910) đã thọ trường chay từ năm 1885.
Ông chống đối thú săn bắn của một số giai cấp quý tộc và trưởng giả. Ông cũng
chủ trương chủ thuyết hòa bình, không sát sinh và ăn chay,tôn trọng sự sống
của các loài sinh vật khác kể cả con ong và loài kiến. Ông tiên đoán những bạo
động xảy ra triền miên trên thế giới chỉ vì loài người không biết tự chế tham
vọng của mình. Sự kiện càng ngày càng tệ hại hơn và có thể xảy ra những cuộc
chiến tranh khốc liệt làm xáo trộn cuộc sống an bình của nhân loại. Trong bài
tham luận The First Step (Bước đầu tiên), Léon Tolstoi bảo rằng những người ăn
thịt là những kẻ phản đạo đức và "phạm tội sát sinh". Ông nói thêm: "Sự sát
sinh đã làm cho những người vốn có một tâm hồn cao thượng,có lòng vị tha đối
với mọi người như đối với chính bản thân mình, trở thành những kẻ hung bạo".
09. Richard Wagner
Nhà soạn nhạc Richard Wagner tin tưởng mạnh mẽ rằng sự sống của mọi loài
đều có tính cách bất khả xâm phạm. Ông bảo: "ăn chay là một sự dinh dưỡng
thuần hợp với bản chất thiên nhiên,cứu vớt con người xa lánh những tâm địa và
hành động tội lỗi,đồng thời ông cũng mong ước sau này sẽ được hóa sinh về nơi
an lạc đời đời".
10. Henry David Thoeau
Ông Henry David Thoreau (1817 - 1862), văn hào Hoa Kỳ có khuynh hướng
chống áp bức nô lệ, chủ trương một cuộc sống thanh bình và thuận lý thiên
nhiên. Ông là người ăn chay định kỳ từ thuở nhỏ, đã bảo rằng:"Chúng ta không
có trách cứ những người ăn mặn. Thực ra vì sự sinh tồn, loài người có thể sát
sinh trên một bình diện nào đó. Nhưng đây là một biện pháp bất khả kháng và
rất đáng thương tâm. Những người ăn mặn cần phải được hướng dẫn để cải
thiện dần đường lối mưu sinh của mình,để họ tự ý thức và tự chọn lựa cho mình
những thức ăn chay thanh đạm và cao khiết hơn. Theo sự suy nghiệm của bản
thân tôi thì những sự kiện đó can dự một cách quan trọng vào vấn đề vận số
của con người. Tôi tin rằng điều kiện ăn uống có thể cải thiện được. Xuyên qua
tiến trình lịch sử của nhân loại, chúng ta há chẳng thấy những bộ lạc ăn thịt
người từ thuở xa xưa, ngày nay họ không còn ăn thịt lẫn nhau vì đời sống càng
ngày càng văn minh hơn và con người trong những bộ lạc đó đã có ý thức hơn"
11. Mohanda Gandhi
Trong lịch sử Ấn Độ vào thập niên 1940 và 50, nhà cách mạng bất bạo động
Mohanda Gandhi đã dành lại chủ quyền cho đất nước từ trong tay thực dân Anh
Quốc. Ông đã từng vào tù ra khám và được nhân dân nước Ấn tôn thờ là bậc
Thánh nhân, cũng là người đã ăn chay từ thuở nhỏ.Thân sinh của ngài vốn theo
đạo Hindus nên gia đình của ngài là một gia đình đạo đức và tất cả đều ăn chay
theo giáo lý tốt lành của tôn giáo đó. Song dưới sự cai trị của Anh Quốc, những
tư tưởng tân tiến Tây phương đã ảnh hưởng mạnh mẽ và dần dần đánh bạt một
số phong tục cổ truyền của nước Ấn. Một số thanh niên thời bấy giờ đã chê bai
việc ăn chay trường và thờ đạo bản xứ là hủ lậu nên họ học đòi theo lối sống
Tây phương trong đó có việc ăn thịt được họ hăm hở chấp nhận hơn cả.Số
người này còn khuyến dụ ông Gandhi theo trào lưu mới như bọn họ,nhưng đã bị
người này còn khuyến dụ ông Gandhi theo trào lưu mới như bọn họ,nhưng đã bị
ông từ chối.Do đó ông đã trở thành nạn nhân của sự chê bai gièm xiễm. Họ bảo
rằng ăn thịt sẽ tăng cường sức khỏe, nghị lực và lòng can đảm. Nhưng ông
Gandhi vẫn khăng khăng giữ vững lập trường của mình không hề xao xuyến.
Không những thế ông còn viết tất cả 5 quyển sách chuyên về đề tài ăn chay và
khuyên mọi người trì giới. Ông bảo: "Đã đến lúc chúng ta cần phải sửa sai một
số tư tưởng lầm lẫn cho rằng ăn chay sẽ làm cho tinh thần chúng ta bị bạc
nhược, thụ động và nhụt chí phấn đấu. Dù trong tình huống nào, tôi vẫn không
xem việc ăn thịt là cần thiết".
Hàng ngày ông Gandhi thường dùng giá lúa mạch, bột hạnh nhân, rau xanh,
chanh và mật ong trong những bữa ăn thanh đạm. Chính ngài bảo đã tìm thấy
những nguyên lý và giá trị đạo đức của sự ăn chay qua các tác phẩm của nhà
văn Tolstoi.Trong quyển Moral Basis of Vegetarianism (Căn bản đạo đức của chủ
thuyết ăn chay), ngài viết:"Tôi khẳng định rằng thịt không phải là thức ăn thích
hợp với con người. Chúng ta không nên sai lầm chạy theo lối sống của các loài
cầm thú, nếu chúng ta tự coi mình cao thượng hơn các loài cầm thú đó". Ngài
cũng bảo chính lòng từ bi là nguyên động lực khiến người ta ăn chay và tránh
sát sinh hơn là vì lý do sức khỏe Ngài bảo sự tiến bộ về tâm linh đến một mức
nào đó, con người sẽ tự ý thức và thương hại mà không giết chóc những sinh
vật bạn bè của chúng ta để thỏa mãn nhu cầu của khẩu vị.
12. Bernard Shaw
Kịch tác gia nổi tiếng Bernard Shaw (1856 - 1950) đã được giải thưởng về văn
học nghệ thuật Nobel năm 1925. Ông cũng ăn chay trường từ năm 25 tuổi. Ông
bảo chính những thi phẩm của Shelley đã làm cho ông thức tĩnh và thấy được
sự đạo đức trong vấn đề chay lạt.Ông bảo có lần ông bị bịnh. Bác sĩ khuyến cáo
ông hãy bỏ "cái tật xấu ăn chay" đó đi. Nếu không ông sẽ toi mạng vì kiệt sức.
Nhưng ông vẫn bất chấp. Ông cũng mặc kệ trước những mỉa mai của bàng dân
thiên hạ, vô công rổi nghề. Ông bảo chúng ta không nên quan tâm về sự dèm
pha của số người chuyên ăn các thây ma của thú vật ấy. Ông thường trước tác
những kịch bản và những văn phẩm liên hệ tới hành vi đạo đức của con người,
tới sự sát sanh và những bạo động trên thế giới.
13. Albert Einstein
Albert Einstein (1879 - 1955),nhà bác học nổi danh của thế kỷ thứ 20. Người đã
phát minh ra thuyết tương đối và được tặng giải Nobel về vật lý học năm 1921
cũng là một người ăn chay trường. Tuy ông chánh thức không theo tín ngưỡng
nào nhưng là một người rất sùng đạo. Ông tin có Thượng Đế và vũ trụ này được
điều khiển bởi một cơ Trời huyền diệu. Nếu không thì mọi sự vận hành trong vũ
trụ sẽ loạn lên và không theo một quy luật nhất định. Ông là một người yêu
chuộng hòa bình, tôn trọng sự sống của muôn loài và đã từng phát biểu:"Không
gì ích lợi cho sức khỏe của con người để có cơ hội sống lâu trên quả địa cầu này
bằng cách ăn chay".
14. Isaac Bashivis
Văn hào Isaac Bashivis Singer (sinh năm 1904), từng đoạt giải thưởng văn học
nghệ thuật Nobel năm 1978 đã thọ chay trường từ năm 1962. Lúc đó ông vừa
đúng 58 tuổi. Ông bảo ông rất lấy làm hối tiếc vì đã kéo dài thời gian ăn mặn
quá lâu. Nhưng thà muộn còn hơn chẳng bao giờ ăn chay cả. Ông nghĩ rằng
thuyết ăn chay để tránh sát sanh cũng cũng cùng hòa hợp với sự uyển chuyển
huyền vi của Do Thái giáo. Ông bảo: "Chúng ta đều là con cái của Thượng Đế.
Trong khi chúng ta cầu xin Thượng Đế tha tội cho chúng ta, thì ngược lại chúng
ta cứ tiếp tục phạm tội sát hại sinh mạng của những động vật khác".
Đề cập tới tình trạng sức khỏe có thể bị ảnh hưởng bởi sự ăn chay,ông bảo rằng
đó là hoàn toàn dựa trên ý thức của loài người. Ông cương quyết bảo: "Ngay cả
việc ăn mặn có tốt cho cơ thể như thế nào chăng nữa,tôi sẽ không bao giờ chấp
nhận.Rất nhiều triết gia và các nhà truyền giáo trên thế giới đã rao giảng với tín
đồ của họ rằng loài thú chẳng qua chỉ là những cái máy không linh hồn và
không cảm giác. Những lời rao giảng như vậy là một sự nói láo, là sáng kiến và
chủ trương của bọn ma vương và tà đạo mà thôi".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét