Tháng Năm Dương Lịch hằng năm là ngày của mẹ và năm nào cũng vậy, cứ đến ngày này là tôi nhớ đến lần thứ mấy kể từ ngày tôi mất Mẹ. Tôi ôn lại quảng đời cơ cực của mẹ mà khóc...Riêng tôi, đứa trai út, trong gia đình có bảy anh chị em, mất ba còn lại bốn, tuổi thơ ấu tôi sống với Mẹ nhiều hơn cả nên cùng ̀Mẹ trải qua nhiều chặng đường gian nan vất vã lắm...với lứa tuổi cấp tiểu học tôi nhớ như in trong trí của tuổi thơ, về mọi sinh hoạt của những giai đoạn khó khăn, khổ cực nhất mà Mẹ cùng con đã trải qua ! nhưng từ lâu không có dịp để ôn lại,
Cha phải đi làm ăn xa. Bầy con năm đứa, lớn lên trong cảnh đói nghèo lết lê khắp phố phường. Mẹ tự mình gồng gánh hết trách nhiệm một đời,thay chồng nuôi con,đứa nào cũng được ăn học tới chốn,qua đôi tay trìu mến đùm bọc của mẹ hiền.
‘Trong tim, ai cũng có những dòng sông…’ tiếng ca và lời nhạc của ai đó nghe thật thảm buồn, đã đưa ta sống lại những ngày thơ ấu, cực khổ nhưng êm đềm với vô vàn kỷ niệm, theo con nước lớn ròng của dòng Hương giang và dòng Dakbla hiền hòa . Tôi được sinh và lớn lên ở bên bờ con sông quê hương đó, với tôi nó chẳng những là dòng sông tươi mát của tuổi thơ, mà còn là dòng sữa mẹ ngào ngọt nuôi con một thời khôn lớn. Nhưng là số phận con dân một nước nhược tiểu, cho nên không thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. rồi lại phát xít Nhật. Trong những thời chạy loạn từ cao nguyên của năm 44 &45, kẻ về miền xuôi, người chạy lên vùng cao đi đường Ba tơ ra Quảng Ngải. Trong lúc mang thai nên Mẹ phải nhờ người bồng hộ tôi lúc đó mới đầy năm, Ba tôi thì ẵm bồng, cỏng, dắt 3 con. Trong cảnh hổn loạn lo sợ nên thất lạc nhau, đến khi tìm gặp thì Mẹ tôi sững sốt vì O Thợ đem tôi cho người Thượng rồi...Thế là cả nhà phải lội rừng trở lại lối cũ để tìm con, quả thật là may khi thấy tôi đang ngồi khóc ở rầm thượng ; Mừng quá, xin nhận lại và tiếp tục ra đi tránh loạn ..! Giờ đây, trong lúc viết những dòng nầy thì tôi đã qua tuổi thất thập, còn Cha Mẹ tôi đã an nghỉ trong giấc ngủ yên bình ở một nơi chốn không còn chiến tranh, hận thù nữa...Cảm ơn Ba Mạ đã cho con đến với thế gian nầy và luôn bảo vệ, che chở con dù bất cứ hoạn nạn nào...(Tôi nghĩ thầm, nếu trong cảnh loạn lạc đó mà bị mất con, chắc chắn Cha Mẹ sẽ đau đớn biết dường nào, còn tôi trở thành con của người Thượng ở vùng núi Ba tơ nào đó, số phận sẽ như thế nào ? tôi chẳng thế nào hình dung ra được.!)
Chiều buồn nắng tắt ngoài hiên,
Bâng khuâng nhớ mẹ nao nao chạnh lòng
Giờ nầy tựa cữa đứng trông
Đợi thằng con út phương xa mỏi mòn
Con đi vào lúc cuối đời .!
Bâng khuâng nhớ mẹ nao nao chạnh lòng
Giờ nầy tựa cữa đứng trông
Đợi thằng con út phương xa mỏi mòn
Con đi vào lúc cuối đời .!
Ngày về thăm thẳm bước đường mù khơi
Cao nguyên còn đó, mẹ ơi !
Nhớ thương Cha Mẹ tâm can rả rời
Cao nguyên còn đó, mẹ ơi !
Nhớ thương Cha Mẹ tâm can rả rời
Mẹ hiền nổi nhớ không nguôi ,
Giờ con lạc chốn tuổi đời hoa niên
Mẹ là dòng suối mát trong
Ðã giúp con tẩy lụy phiền đời con
Giờ con lạc chốn tuổi đời hoa niên
Mẹ là dòng suối mát trong
Ðã giúp con tẩy lụy phiền đời con
Mẹ là trăng sáng giữa trời
Soi đường chỉ lối con không lạc loài
Con thèm nghe tiếng mẹ khuyên
Vẫn cần có mẹ lúc buồn đơn côi
Soi đường chỉ lối con không lạc loài
Con thèm nghe tiếng mẹ khuyên
Vẫn cần có mẹ lúc buồn đơn côi
Mẹ ơi, giờ mẹ phương nào?
Nhiều đêm con khóc nghẹn ngào canh thâu
Mẹ già đơn chiết quanh năm
Héo mòn, ngày tháng đợi trông con về ...
Nhiều đêm con khóc nghẹn ngào canh thâu
Mẹ già đơn chiết quanh năm
Héo mòn, ngày tháng đợi trông con về ...
Giờ đây Mẹ đã ngủ yên trên quê hương yêu dấu mặc cho dòng đời và dòng sông ròng lớn đổi thay. Nhưng với tôi con sông cũng như lòng mẹ, một đời đã hy sinh tần tảo vì con, làm sao quên được.
Tại quê người, tháng năm Dương Lịch vẫn còn mùa xuân, nên vẫn còn rơi rớt những giọt mưa phùn lất phất, dù trời chỉ thoáng một chút heo mây nhè nhẹ. để chuẩn bị bước vào mùa hè...
Nhắc đến hè là nghĩ ngay đến tuổi học trò ngày xưa cũ ở quê nhà, với sự buồn vui lẫn lộn trong lòng, xa bạn bè, thầy cô, xa mái trường thân quen với những nỗi buồn bân quơ; vui trong ba tháng hè mặc sức mà rong chơi thỏa thích. Ven đường những cánh Phượng Vỹ đầu mùa, đã thấy đượm màu hoa rực rỡ, Những hình ảnh của mấy chục năm về trước đã hiện rõ và đậm nét trong trí tôi, nào đá gà bông phượng, ăn bông, ăn hột trái phượng, những động tác như Đập, Gõ, Vặn, Tách mới có được
Tại Việt Nam, phượng vĩ là biểu tượng gắn liền với tuổi học trò, do mùa nở hoa của nó trùng với thời điểm kết thúc năm học, mùa chia tay của nhiều thế hệ học trò. Do vậy, nó gắn liền với nhiều kỹ niệm buồn vui của tuổi học trò, vì thế người ta gắn cho nó tên gọi " hoa học trò "
Mưa ấy nước mắt ấy khác nào những biển lệ trời thương của các trang hiếu tử, lòng hiếu đạo của phận làm con, trong đó có Bồ Tát Mục Kiền Liên, xuống tận âm ty để tìm mẹ là Thanh Ðề đang chịu cực hình vì tội " buôn Thần bán Sư " khi còn sanh tiền. Nhưng nhờ tình mẫu tử thiên thu bất diệt đã cảm động đến Phật Trời, nên cuối cùng Mẹ được tha thứ mọi tội lỗi để kịp sám hối ăn năn :
Mục Liên dù đã hóa thân
Vì thương từ mẫu, muôn phần họa tai…
Thật vậy, ngoại trừ đất đá và kẻ vô tri, còn vạn vật từ con người, muông thú cho tới cỏ cây, đều do MẸ cưu mang và sanh thành. Cho nên trong tâm tư của tất cả mọi người, trong tiềm thức sâu thẳm,mơ hồ hay hiện thực,hình ảnh Mẹ luôn vẫn vẫn trang đài, diễm tuyệt, đáng để ta tôn thờ và trìu mến,dù rằng công cha như núi Thái Sơn còn mẹ hiền thì ngọt ngào như chuối ba hương, xôi nếp một và như đường míalau.mía lau vừa ngọt vừa mềm không dao mà tiện không tiền mà mua
Nên người đời ai cũng luôn cần có mẹ, dù là trẻ thơ hay người trưởng thành. Những đứa trẻ mồ côi, cho dù có được người thân còn lại nuông chiều, thương yêu,nuôi dưỡng, dạy dỗ tử tế đến mấy, lớn lên cũng cảm thấy tâm hồn héo mòn, khô cằn bởi mặc càm cô đơn bên cạnh người thân. Bởi vậy, người đời đã viết: ’Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi me lót lá mà nằm‘. Riêng người lớn tuổi, khi mất mẹ, cảm thấy chơi vơi như mất điểm tựa, nên cũng cô đơn lạc lõng như trẻ mồ côi.Tóm lại mẹ là nguồn gốc của mọi tình cảm yêu thương trên đời,cho ta biết thế nàolà ngọt bùi ấm lạnh và nguồn thương yêu cao cả của kiếp nhân sinh
Trong kho tàng văn chương bình dân Việt Nam có khá nhiều câu ca nói về tình cảm của người con đối với cha mẹ ; bổn phận và lòng biết ơn đối với những đấng sinh thành; mối quan hệ thiêng liêng của tình ruột thịt… Điều này biểu lộ rõ ràng rằng, người dân Việt luôn coi trọng chữ hiếu, chữ nghĩa, là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Từ thuở nhỏ tôi đã có dịp học thuộc nhiều câu ca dao, tuy vậy có đôi câu làm tôi khó hiểu. Lớn lên, khi được làm cha (và dĩ nhiên cũng đã học được đôi chút kinh nghiệm) tôi mới tự giải tỏa được thắc mắc. Một trong những câu có ít nhiều uẩn khúc, khó hiểu đó là:
"Mồ côi cha ăn cơm với cá,
Mồ côi mẹ lót là mà nằm!".
Qua hai câu nầy ai cũng hiểu được rằng: nếu một người con mất cha sẽ được sung sướng hay vẫn còn sung sướng vì được " ăn cơm với cá "; ngược lại, nếu bị mất mẹ, thì sẽ bị khổ sở cùng cực, vì phải " lót lá mà nằm ".
Như vậy, theo tinh thần câu ca dao xưa, thì cái vai trò, trọng trách, hay bổn phận của người cha trong sinh hoạt ảnh hưởng, quan hệ với con cái trong gia đình là rất ít, rất mờ nhạt, nếu không muốn nói là không có gì hay sao !? Người cha không biết chăm sóc, lo lắng, dạy dỗ cho các con mình? Không yêu thương con bằng người mẹ chăng? Tìm hiểu thêm, chúng ta có thể hiểu, câu ca dao trên được phát xuất từ hoàn cảnh cá biệt của một thiểu số người đàn bà bất hạnh, không có duyên lành, gặp phải một người chồng thiếu trách nhiệm… đã như thế thì cũng có thể " mồ côi cha ăn cơm với cá "
Nói đến gia đình, người ta nghĩ ngay tới một gia đình gồm cha mẹ và con cái, không có ông bà kiểu “tứ đại đồng đường” như xưa, nhưng có lẽ gia đình ngày nay phải định nghĩa lại: đó là một gia đình chỉ có mẹ và con hoặc cha và con! Đa số, đến chín phần mười là mẹ và con. Cha, hoặc giấu mặt, hoặc trong bóng đêm, hoặc thỉnh thoảng được phép gặp con một lần vào cuối tuần, cuối tháng… Tình trạng gia đình đơn thân (chỉ có cha hoặc mẹ) ngày nay càng nhiều, theo tốc độ đô thị hóa, toàn cầu hóa. Ở Mỹ, tỷ lệ gia đình đơn thân hiện nay đã là 35%, có tiểu bang đến 47%, không kể những gia đình trẻ mồ côi, con nuôi, hay có cha mẹ ghẻ. hoặc cả cha lẫn mẹ có gia đình mới, nên gởi con sống với ông bà nội hay ngoại. Nói khác đi cứ hai hoặc ba đứa trẻ ở Mỹ bây giờ thì có một bé sống với gia đình đơn thân. Ở ta tình trạng gia đình đơn thân cũng đang tăng nhanh do ly dị, ly thân hoặc người phụ nữ muốn có một đứa con để “hủ hỉ” lúc tuổi xế chiều…
Xã hội ngày càng cảm thông với những bà mẹ đơn chiếc, và dần dần người ta thấy ở bà mẹ đơn thân là niềm tự hào của người… phụ nữ thời đại, bản lãnh, trí thức, kinh tế vững vàng, không cần đến bóng dáng một người đàn ông. Nhiều năm trước đây, các nhà xã hội học Pháp cũng đã báo động “Người cha đâu rồi?” khi thấy ngày càng vắng bóng người cha trong gia đình. Không còn cái cảnh mẹ là “từ mẫu” cha là “nghiêm đường” như vốn được mặc nhiên phân công trong việc nuôi dạy con như ngày xưa. Không còn chuyện: “Con có cha như nhà có nóc” hay “Còn cha gót đỏ như son/ Một mai cha mất gót con như chì” nữa! Thế nhưng, dù người mẹ đơn thân có thể tự hào chẳng cần ai, chẳng cần bờ vai, chẳng cần nơi nương tựa nhưng dù thế nào, làm sao giấu được nỗi chua xót những đêm quên ngủ những ngày quên ăn, những thâu đêm lúc con ốm đau, khóc chướng hay lúc bi bô hỏi chuyện gần xa, làm sao giấu được nỗi nghẹn ngào khi một mình bươn chãi, hoặc thiếu trước hụt sau, những lúc đối diện với dèm pha, bóng gió…
Bên cạnh câu hát, "mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ lót lá mà nằm" lại cũng có câu hát đáp lại như sau :
"Con có cha như nhà có nóc"
Hay :
"Còn cha gót đỏ như son,
Một mai cha mất gót con như chì!".
Qua câu ca dao, chúng ta hiểu được nếu con còn có cha, thì sẽ được rất sung sướng, vì "gót đỏ như son" ; mai kia nếu bị mất cha rồi sống với mẹ thì sẽ rất khổ sở, sống đời lam lũ, tăm tối vì "gót con như chì!".
Suy nghĩ về câu hát này, chúng ta cũng phát hiện ra rằng, chính tâm sự gởi gắm này là của một người đàn ông (hay của người khác biết rõ chuyện) bất hạnh, chẳng may gặp một người vợ không thủy chung, sống trong gia đình; nhưng thiếu bổn phận chăm sóc dạy dỗ con cái; để gánh nặng đè lên đôi vai người chồng! (Ca dao: "Mẹ ơi, mẹ bạc hơn gà; con chưa lẻ mẹ, mẹ đà lẻ con! Mẹ ơi, trái bí còn non; cầm dao mẹ cắt ruột con sao đành!").
Thực tế trong đời sống, từ ngàn xưa đến nay, những hoàn cảnh đau lòng như thế không phải là không xảy ra. Điều quan trọng là, chúng ta phải xác nhận rằng, những cảnh đời thương tâm, đầy trắc ẩn như thế là rất ít, là cá biệt. Biết rõ như vậy, để càng xác định, củng cố niềm tin yêu, kính trọng đối với công ơn trời biển của cha mẹ. Hầu hết các bậc cha mẹ luôn luôn sống vì con cái, luôn hy sinh nhu cầu của chính mình cho tương lai của các con. Đó là tình yêu thương vô điều kiện, vô cùng to lớn và thiêng liêng mà mỗi người chúng ta đều được đón nhận từ lúc mở mắt chào đời.
Ca dao cũng đã lưu truyền :
"Đội ơn chín chữ cù lao,
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa!"
Và :
"Công cha, nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta…
Nên người - ta phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Công ơn của cha và mẹ đều khó có thể kể hết được, đều to lớn như nhau. Mỗi người đều có một vai trò,trọng trách riêng nhưng đều xuất phát từ suối nguồn yêu thương con cái vô bờ. Người xưa đã đưa ra một hình ảnh ví dụ thật thâm thúy :
"Có cha, có mẹ thì hơn
Không cha, mất mẹ như đờn đứt dây"
Cha mẹ được ví như những dây đờn, mỗi dây có một vị trí, nhiệm vụ riêng, có âm thanh riêng, nhưng đều góp phần tạo ra âm thanh kỳ diệu cho cây đàn…
Và lại có câu: "Con không cha như nhà không nóc" - Một căn nhà đúng nghĩa, đầy đủ, phải có vách, cửa, cột, kèo, nóc, mái… Nhà không nóc thì mưa nắng sẽ thế nào? Còn mẹ, mất cha cũng là điều bất hạnh (nhà không nóc). Còn cha, mất mẹ -cũng là niềm khổ đau to lớn!
Suy nghĩ về những câu ca dao xưa (như nói trên) là để thấu hiểu sâu sắc tâm sự, tình cảm, nỗi niềm nhắm gửi của bao thế hệ; để hết lòng yêu kính, đền ơn cha mẹ - để trải lòng cảm thông với biết bao người quanh ta đang bị côi cút, bất hạnh. Hãy đem tình thương, sự chở che, giúp đỡ đến với họ; để cùng xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa , có hạnh phúc đích thực, bởi vì "dẫu xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người!". Hạnh phúc nhất chính là lúc ta cho đi, chứ không phải nhận về. Hãy mở rộng từ tâm đến với tất cả…
Tình mẫu tử bao la trùng hằng miên viễn, đã theo thời gian trở thành nguồn cảm hứng vô tận, như con thuyền bát nhã, đưa con người trần tục, đến gần các đấng từ mẫu, trong mọi tôn giáo lớn của hoàn cầu.
Trong dòng lịch sử Hồng Lạc, chúng ta có Mẹ Âu Cơ, quốc mẫu của dân tộc Việt và được nối tiếp bởi một trái tim từ mẫu thời cận sử: Thái Hậu Từ Dũ, một trái tim nhân từ của các bà mẹ Việt Nam:
trăng Tiền Ðường ấp ủ năm canh
… bống bồng bông, bống bồng bông
võng đào mẹ bế con rồng cháu tiên…
(ca dao)
Riêng trong tín ngưỡng bình dân, ta có Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở miền Bắc và Mẫu Thiên Y A Na, dù phát nguồn từ Chiêm quốc, nhưng từ thế kỷ XVI trở về sau đã được người Việt phụng thờ, mà Hội Ðiện Hòn Chén hay Lễ Vía Mẹ hằng năm vào Rằm tháng Bảy tại Thừa Thiên, là một minh chứng. Ngoài ra, còn có Ðức Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát của Phật Giáo và Ðức Me Ðồng Trinh Maria trong Ky Tô Giáo.
Hằng năm, tại các nước Âu Mỹ đều cử hành long trọng ngày ‘Nhớ Ơn Mẹ (The Mother’s Day)’ vào tháng năm Dương Lịch. Riêng các nước Ðông Nam Á theo Phật Giáo vào ngày Rằm tháng Bảy Âm Lịch đều cử hành long trọng Hội Vu Lan Bồn. Cả hai lễ hội trên, tuy hình thức có khác biệt nhưng vẫn chung nội dung với ý nghĩa ‘VINH DANH CÔNG ƠN SINH THÀNH DƯỠNG DỤC CỦA TỪ MẪU‘. Ðây là một ngày lễ lớn và cũng là dịp để con cái tu nhơn tích đức, làm việc từ thiện trả ơn, báo hiếu cho cha mẹ mình, dù còn sống hay đã qua đời.
Trong kho tàng văn chương của dân tộc Việt, ta thấy còn lưu lại rất nhiều bài hát ru, đọc lên thấy âm điệu rất là khoan thai, nhịp nhàng và nghệ thuật. Về nội dung, hầu hết các bài hát ru trên, được xem như là lời của Mẹ hiền đang vỗ về tâm hồn con thơ, nên rất gần gũi với mọi bà mẹ ở ngoài đời:
Gió mùa xuân, mẹ bâng khuâng hỏi
hoa trên đồi, hoa trên đồi
sớm tối còn hương
Có phải chàng Trương, gốc miền Nam Xương
xa vắng xóm làng vì đang ở chiến trường
hãy nín nín đi con, hãy ngủ ngủ cho ngoan…
Nói chung lời mẹ ru con, được đánh giá như một thứ âm nhạc nghệ thuật khởi đầu và cuối cùng của đời người. Mẹ chính là người ca sĩ đầu tiên đối với con mình, bằng cả một tấm lòng, qua tiếng ru và nhịp nôi, tạo ra cả nguồn hạnh phúc trời biển đối với tâm hồn trẻ thơ, với tình thương yêu dịu hiền, chứa đầy tấm lòng đạo đức nhân nghĩa, như môt khúc dạo đầu, đưa con thơ vào nẽo đời hạnh phúc.
Nay lớn lên sống lang thang khắp mọi miền đất nước, tình cờ có những đêm khuya, đi qua những phố phường xa lạ, ngập đầy xe cộ và ánh sáng, bổng dưng thấy thèm nghe lại tiếng khóc của trẻ thơ và lời ru của mẹ thuở nào.!
Ngày nay từ Âu sang Á ở đâu cũng có những tượng đài, thơ văn, bài hát, tuồng kịch… để ca tụng công đức biển trời của người mẹ mênh mông bao la như biển Thái Bình. Bởi Mẹ là nguồn ngọn của mọi tình thương trên cõi đời này. Mẹ cũng là một hình ảnh tuyệt diệu, diễm hằng, muôn trùng ngời sáng, không bao giờ có thể thay thế được. Ôi sung sướng thay cho những ai còn Mẹ và cũng tủi xót cho những người mất mẹ nửa đời, mỗi khi tưởng nhớ, chỉ còn lặng lẽ ước ao ngóng về xóm nhỏ nơi nhũng bờ bụi khóm tre ngàn năm lau lách xạc xào. Con đã bước qua hết hai phần đời để được thắm thía rằng chỉ có một nguồn suối tình thương mang tên Mẹ là vĩnh cửu không bao giờ khô chảy.
Ôi cảm động biết bao, khi nhớ lại đoản văn đã học thời niên thiếu ‘Tôi đi học‘ của Thanh Tịnh
"Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỹ niệm mơn man của buổi tựu trưởng.
Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng"
Sự cảm xúc được mô tả hết sức tự nhiên. Nghệ thuật so sánh được tác giả xử dụng khéo léo, kết hợp với những hình ảnh đầy sức gợi cảm đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa thu thơ mộng với sắc lá vàng phai, với màu mây bạc lãng đãng trôi trên bầu trời mênh mông, xanh thẳm.
Hình ảnh mấy em nhỏ rụt rè nấp dưới nón mẹ lần đầu tiên đi đến trường khiến cho nhà văn nhớ lại ngày đầu tiên đi học không thể nào quên của mình.
Sau mấy chục năm, tác giả – là cậu bé ngày xưa vẫn nhớ như in: "Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp"
Tâm trạng hồi hộp, cảm giác mới mẻ của cậu bé khi được mẹ dắt đi trên con đường tới trường được diễn tả rất tinh tế: Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ… cảnh vật chung quanh đều thay đổi. Cậu bé đã nhanh chóng tìm ra nguyên nhân của sự lạ lùng ấy: vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học.
Hay nổi nhớ mẹ của Lưu Trọng Lư
Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời,
Lúc người còn sống tôi lên mười,
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,
Áo đỏ người đưa trước dậu phơi…
Hay giai thoại của Hồng Hà Nữ Sĩ Ðoàn Thị Ðiểm, trước sự hỗn láo của tên sứ Tàu, đã lấy Mẹ Việt Nam làm đề tài khi bà ứng khẩu một câu đối trả đũa giặc:
An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh
(một tấc đất ở nước Nam, không biết bao nhiêu người cày)
‘Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất
(những người anh hùng bên Tàu, cũng từ chỗ đó mà ra)
Câu đối vừa thanh lại vừa tục, hàm ý rằng dù là ai chăng nữa thì cũng do Mẹ sinh thành, không có người thì chẳng bao giờ có con. Chẳng vậy mà nhà văn Pháp Edmon de Amacid đã viết trong ‘Tâm Hồn Cao Thượng’, Hà mai Anh dịch rằng: "Người Mẹ sẵn lòng đem một năm hạnh phúc của mình để đổi một giờ đau đớn cho con. Người Mẹ cũng sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh để cứu sống con mình. Con ơi, đời con sẽ có những ngày buồn rầu đau thương, và cũng là chuỗi ngày sầu thảm nhất: Ðó là ngày con mất mẹ".
Giờ mới hiểu tại sao, có những đứa con, do hoàn cảnh mà phải tha phương , biệt xứ, lưu lạc quê người, lại là những kẻ khao khat tình mẫu tử, nhung nhớ kỷ niệm, dù rằng đó chỉ là những hình ảnh đơn sơ mộc mạc nơi chốn quê nghèo:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều
Mẹ ơi đừng đánh con đau
Ðể con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
Ghe bầu trở lại về đông
Con gái theo chồng, bỏ mẹ ai nuôi?
Ðó là những câu ca dao hay nhất từ trước đến nay, đọc từ đầu đến cuối không tìm thấy một chữ nào thần bí hay cầu kỳ nhưng trong ý nghĩa và mùi vị, thì đượm thắm nồng nàn , khiến cho người ta phải đau khi nhớ và không cầm nổi nước mắt thương tủi khi thực sự đối mặt với sầu buồn. Cũng cùng trong cái hình ảnh trên, người buồn hồn lại thêm buồn, khi nhà ai bên ngõ, bỗng dưng vô tình có tiếng gọi con, trong khi lưng trời, chiều tàn, đàn chim về tổ, ríu rít gọi nhau, làm cho nổi nhớ quay quắt không ngừng, khiến cho đứa con lạc bầy, nao nức nhớ mẹ, rưng rưng hồi tưởng những lúc nói láo tránh đòn, khi về nhà trễ vì ham chơi với bạn sau khi tan trường.
Rồi thì lưu lạc mười phương, cơ hàn đói lạnh, gian truân tù ngục, hận hờn thương tủi chỉ một mình đơn côi... chính là lúc nước mắt lưng tròng bâng quơ tưởng tiếc cái thời ấu thơ ngồi chờ mẹ về để có những món quà của buổi chợ quê, mà mẹ luôn dành sẵn:
cơm người khổ lắm mẹ ơi
không như cơm mẹ, chỉ ngồi xuống ăn.
không như cơm mẹ, chỉ ngồi xuống ăn.
2-NHỮNG GƯƠNG HIẾU TỬ XƯA NAY ÐƯỢC ÐỜI XƯNG TỤNG:
Mẹ là nguồn ngọn của mọi tình thương trên cõi đời, nên rất phù hợp với chân lý của mọi tín ngưỡng, đều lấy nhân hiếu làm căn bản xử thế và hành đạo. Bởi thế con người, trong lúc gặp hoạn nạn đau khổ, thì thường than thầm hay gào to :’Mẹ ơi con khổ quá’, đồng thời với lời cầu khẩn các đấng thần linh giúp đỡ. Do trên , từ trước tới nay, từ Đông sang Tây, đã có mẹ hiền thì cũng không thiếu gì những gương hiếu tử, đáng làm gương cho hậu thế soi chung muôn đời. Những câu chuyện kể sau dây, chỉ là những chiếc lá lẻ loi trong rừng thơ, nhạc, truyện, ký.. mà nhân thế kim cổ đã sáng tạo, để vinh danh những trang hiếu tử ngời sáng muôn đời.
- GƯƠNG HIẾU TỬ:
Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí, có viết về Nguyễn Văn Liễu, người Phan Thiết, thuộc phủ Bình Thuận. Năm lên 8 tuổi, mồ côi cha, ông thờ mẹ rất có hiếu. Khi mẹ chết, làm lều bên mộ me tới ba năm, người đương thời ai cũng xưng tụng. Năm Minh Mạng thứ 8, vua nghe tiếng, biểu dương là trang hiếu tử.
Để tỏ lòng kính trọng các bậc sinh thành, người con trai Sanjay Kumar, 42 tuổi, đã gánh ông bố 95 tuổi và bà mẹ 80 tuổi của mình đi bộ vượt quãng đường dài 216km từ khu vực lễ hội tắm nước sông Hằng ở Haridwar, bang Uttar Pradesh (Ấn Độ) về tận nhà của họ ở khu vực Seelampura, thành phố Delhi.
Trước đó, cụ ông Lala Ram và cụ bà Savitri Devi đã ra sức can ngăn con trai vì biết với một “gánh nặng” trên vai khoảng 115kg (tổng trọng lượng của cả hai cụ) để vượt một quãng đường dài hàng trăm km là một việc làm cực kỳ khó khăn.
Tuy nhiên, ông Sanjay Kumar nhất quyết không nghe và đặt tay lên bàn chân của các cụ (phong tục Ấn Độ để tỏ lòng kính trọng đối với các bậc trên) để xin cha mẹ chấp nhận.
Trước sự kiên quyết của người con hiếu thuận, hai cụ đành đồng ý ngồi vào hai bên quang gánh đã được chuẩn bị chu đáo để con trai gánh.
Mặc dù thời tiết mưa nắng thất thường và phải vượt qua những quãng đường đầy khó khăn, song ông Sanjay Kumar vẫn gánh bố mẹ trên vai đi được 25-30km mỗi ngày.
Sau mỗi bữa ăn, cả ba người nghỉ ngơi một lát, tắm rửa rồi lại tíếp tục lên đường. Ngày 2/8 vừa qua, họ đã về tới nhà ở thị trấn Ghaziabad, cách thành phố Delhi khoảng 40km.
Rất nhiều người nghe tin đã kéo nhau đi xem và xin hai cụ Lala Ram và Savitri Devi ban phước lành. Cảnh sát Ghaziabad cũng đã tổ chức lễ nghênh đón trọng thị cả ba người.
Khi được hỏi vì sao lại chọn cách thể hiện sự kính trọng bố mẹ một cách kỳ lạ như vậy, ông Sanjay Kumar nói, hiện có không ít thanh niên không hiểu được bố mẹ có ý nghĩa quan trọng như thế nào trong cuộc đời mình. Việc ông gánh các bậc sinh thành trên vai là thể hiện sự kính trọng đối với những người đã đưa ông tới thế giới này.
* MẸ TÔI CHẾT LÀ HẾT
Joseph Sadese sinh năm 1935 tại Toulouse (Pháp). Năm 1956 cha bị thất nghiệp, ông phải tình nguyện đăng lính để có tiền giúp đở gia đình. Sau đó lại chuyển sang binh đoàn lính đánh thuê Lê Dương để lấy trước tiền tử tuất gởi về nhà lo thuốc thang cho mẹ bị bệnh nặng cũng như giúp đỡ các em kiếm sống. Tại Algerie, trong một trận kịch chiến, ông bị thương nặng phải cưa một chân nhưng vẫn xin ở lại trong quân ngũ để có đủ tiền lo cho mẹ già, em dại. Nhưng rồi năm sau nhận được điện tín, báo tin mẹ già đã qua đời bèn tức tốc trở lại quê, thì người nhà đã chôn mẹ. Ông vội chạy ra nghĩa trang, ôm mồ mẹ than khóc thảm thiết và nói: "Mẹ ơi, con đi lính là để lo cho mẹ, nay mẹ không còn, thế là hết".
* VÌ MẸ TẬN TRUNG BÁO QUỐC:
Nhạc Phi (1103-1142) là một danh tướng, đồng thời cũng là một vị anh hùng của Trung Hoa. Ông sống vào thời Nam Tống, tự là Bằng Cử, người Huyện Thang Âm, tỉnh Hà Nam. Nhà nghèo nhưng học hành chăm chỉ, lại được từ mẫu giáo dục từ thuở nhỏ nên tài đức vẹn toàn. Trước khi trở thành đại tướng nắm giữ binh quyền cả nước, mẹ ông đã khắc vào vai con bốn chữ: "Tận Trung Báo Quốc". Do đó trong suốt đời, Nhạc Phi chỉ biết vì dân vì nước và cuối cùng đã bị tên Hán gian Tần Cối tư thông với giặc Kim, hãm hại, vu cáo, chết trong ngục, lúc mới 39 tuổi, dù biết nhưng vẫn cam chịu. Người Trung Hoa luôn lấy Nhạc Phi làm gương, đời đời kính nhớ người con chí hiếu, cũng là một vị anh hùng dân tộc, một bậc sĩ phu dũng liệt trung thần.
* CHỈ CẦN MẸ SỐNG THÊM VÀI TUỔI, LÀ CON ÐÃ MÃN NGUYỆN RỒI:
Thẩm Lục Hưng người Tân Trịnh, Duyên Châu, sống vào đời Vua Tống Huy Tôn (1174-1189), Trung Quốc. Ông mồ côi cha từ thuở nhỏ nhưng được mẹ hết lòng nuôi nấng và dạy dỗ nên người, cho ông ăn học thành tài. Năm 25 tuổi,Thẩm Hưng thi đổ, được bổ tri huyện. Trong vùng có một hào phú đem tặng ông 30 lượng vàng, để xin khẩn hoang vùng đất còn trống ven huyện.Người này còn thuyết phục ông nên bắt chước các quan tiền nhiệm, phải biết tham nhũng, hối lộ, để trở thành giàu có, sống sung sướng nhưng bị ông từ chối và nghiêm phạt.
Mười năm sau, thân mẫu ông tuổi già nên bị bệnh nặng. Lúc đó có một hào phú mang đến tặng ông một túi nhân sâm cực quý, để xin quan huyện giúp cho con trai mình thi đổ trong kỳ thi sắp tới. Thẩm Hưng vui vẻ nhận lời và nói: ’Mẹ tôi đang lúc đau nặng, nhờ túi sâm này, hy vọng sống thêm được vài năm nữa’. Thế là từ đó cho đến ngày thi, thay vì gửi gấm, quan Huyện thu xếp thời giờ riêng đích thân dạy kèm cậu con trai ông phú hộ. Nhờ đó, em được thi đổ, còn mẹ ông uống nhân sâm quý nên sống thêm được vài năm nữa mới qua đời. Ðây là tấm gương cao quý, mà người Trung Hoa xưa nay thường lấy đó để dạy dỗ con cái mình.
* NGÔ MẠNH TÔNG NẰM VÁN KHÓC MĂNG:
Tác phẩm Nhị Thập Tứ Hiếu của Tàu, được Lý Văn Phức diễn nôm, thuật lại gương hiếu tử của 24 người con Trung Quốc đời đời được mọi người lấy đó làm gương trau dồi đức hạnh. Trong các câu chuyện trên, theo mọi người, chuyện Ngô Mạnh Tông nằm ván khóc măng là cảm động nhất. Ông mồ côi cha từ thuở nhỏ nhưng ở với mẹ rất có hiếu. Năm nọ mẹ bệnh nặng lại thèm ăn chén canh măng. Lúc đó trời vào đông, có mưa tuyết dầm dề, vạn vật kể cả con người đều như muốn chết cóng dưới cái lạnh kinh hồn của đất trời thì tìm đâu để mẹ có măng ăn trong lúc đó. Có lẽ tấm lòng hiếu tử đã cảm động tới Trời Phật nên trong cảnh mưa tuyết dầm dề bổng mọc lên một mụn măng nõn nường ngon tuyệt. Mẹ già nhờ ăn được chén canh măng nên khỏi bệnh:
Giữa bình địa, phút giây bổng nứt
mấy rò măng, mât đất nõn xanh
Ðem về nấu được bửa canh
Ăn rồi bệnh mẹ, lại lành như xưa
Cho hay hiếu động cao dày
Tình sâu nên khóc, cỏ cây cũng tình…
Trong kho tàng văn chương bình dân của VN, cũng có nhiều thơ văn đề cao lòng hiếu thảo của con đối với mẹ như Pham Công-Cúc Hoa, Lục Văn Tiên, Thoại Khanh Châu Tuấn, Trần Minh khố chuối… nhưng cảm động nhất là đời thực của Vua Tự Ðức, đối với mẹ ruột của mình là Ðức Từ Dũ Hoàng Thái Hậu, sinh quán tại tỉnh Gò Công (Nam Phần).
Tìm trong lịch sử nước ta chưa từng thấy có vị vua nào như thế. Trong sách “Từ Dụ Hoàng thái hậu truyện”, vua Tự Đức còn viết: Đức vua phụng sự mẹ chí hiếu lắm. Bà thường muốn nghe đọc sách sử, vua thuận theo ý bà. Chẳng có khi nào dám trái ngược, chừng nào mẹ hết muốn nghe, bảo thôi đọc thì vua mới thôi. Chẳng những việc đọc sách sử mà bất cứ chuyện gì, vua cũng nhất nhất thừa theo ý mẹ.
3-TÌNH MẪU TỬ TRONG THẾ GIỚI ÐỘNG VẬT:
Gần 40 năm về trước, nhà sinh vật học được giải Nobel năm 1973 là Konred Lorenz chuyên nghiên cứu về sự tiến hóa của loài vật, đã cùng với nữ bác sĩ thú y là Marie Claun Bonsel chuyên theo dõi đời sống của muôn thú. Qua nhiều năm thu nhặt, kết quả hai người đã tuyên bố: "Dù con người có nghĩ thế nào chăng nữa, hoặc sự việc xảy ra do bản năng, thì chắc chắn muôn vật sẽ không còn tồn tại nếu chúng không có tình mẫu tử."
Do trên ta đã thấy, trong bất cứ loài thú nào, ở vào giai đoạn cực kỳ nguy hiểm thì thú mẹ luôn lấy thân mình bảo vệ cho con cái, dù biết là mình sẽ chết. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa con người và muông thú, đó là con vật mẹ sẽ không thấy có lỗi khi bỏ rơi con cái hay giành lấy thức ăn để sinh tồn, mặc kệ con cái có bị chết đói cũng không màng tới. Cũng do đặc tính này mà các nhà nghiên cứu đã kết luận thú vật chỉ có bản năng tình mẫu tử, chứ không hề có tình yêu mẫu tử như con người. Nhưng dù thế nào chăng nũa, ta cũng phải khâm phục chúng, trong khi đối xử với con cái, hết sức dịu dàng, trìu mến, giữa một thế giới vạn vật luôn thù nghịch, đầy hiểm họa, phải giết chết lẫn nhau để sinh tồn.
Ðối với các loài thú hoang dã, khi thú con dứt sửa sẽ bị đuổi đi để tự sinh tồn. Ðây cũng là tập quán, lẽ sinh tồn của rừng xanh. Với loài khỉ đột, do khỉ cái mỗi lần sinh đẻ chỉ độc nhất một con cho nên chăm sóc con mình rất chu đáo, cẩn thận. Riêng khỉ đực thì dửng dưng vô trách nhiệm, vì loài khỉ theo chế độ đa thê. Loài báo bờm khi sinh con, báo con không có lông và mở mắt được trong 15 ngày nên báo mẹ phải chăm sóc và bảo vệ con nhỏ, đồng thời bỏ đàn tìm một nơi vắng vẻ để nuôi con vì báo cha sẽ ăn thịt báo con khi đói.
Nhưng vĩ đại nhất vẫn là tình yêu con cái nơi loài chim cánh cụt, chúa tể của miền băng tuyết Nam Cực, một địa danh lạnh nhất hoàn cầu. Ðể chim con ra đời và sinh tồn, chim cha và chim mẹ phải thay phiên đứng giữa băng giá lạnh lẽo suốt thời gian bốn tháng rưởi, dùng bản thân mình để ấp trứng. Riêng loài Vượn Châu Á, một loài thú được con người ca tụng nhất vì tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt,yêu thương con cái hết mực,lúc nào cũng sẵn sàng lấy thân mình để che chở con cái khi hiểm nguy. Cũng do tình mẫu tử thiêng liêng nên các ác thú như cọp, sư tử, rắn hổ mang mẹ, sẽ trở nên hung dữ dị thường để bảo vệ con khi chúng sinh nở. Ðặc biệt nhất nơi loài gấu, vì sợ gấu cha ăn thịt nên gấu mẹ lúc nào cũng cõng con nhỏ trên lưng khi chúng mới ra đời. Do tình thiêng đó nên tục ngữ mới có câu: " Hùm dữ còn không nở ăn thịt con ".
LỜI CUỐI DÀNH CHO CHA MẸ :
LỜI CUỐI DÀNH CHO CHA MẸ :
Tháng Năm Dương Lịch, tiết trời như đã chuyển sang hè, nắng gió và những cơn mưa phùn bất chợt se mát, đã gợi nhớ những kỷ niệm quê hương của một thời xa xưa nồng thắm. Ở đây, mỗi lần nhớ cha mẹ, đứa con xa nhà lãng du khổ hận, chỉ còn ước ao lặng lẽ, khóc cười mê tỉnh như đang bước vội lên con thuyền viễn xứ mộng mơ, để nhắm mắt mừng vui tủi tủi khi thấy con đang quỳ bên gối mẹ cha năm nào. Mạ ơi, Ba ơi, con đã về rồi.!!!
Mưa muôn đời ở đâu cũng đầm đìa não nuột, làm cho người xa xứ chỉ còn biết cắn răng âm thầm nuốt lệ. Ôi ! sung sướng biết bao cho những ai còn cha mẹ để tôn vinh trìu mến, chỉ riêng có con với đấng sinh thành... thì ngàn đời xa biệt, nên đêm nay đứa con viễn xứ đứng nhìn mưa rơi, nhớ về quê nhà với nỗi buồn sâu thẵm, gọi thầm trong uất nghẹn: " Mạ ơi ! Ba ơi ! con đã mất các Người rồi "
Mạ dỗ con, con ơi đừng khóc
mạ ru con, con ơi ngủ đi
Cha cõng con trên tấm lưng gầy
bươm bướm bay, bay vờn theo mãi
bươm bướm bay, bay vào giấc ngủ
đậu trên mũi, mùi chuối chín cây
con bươm bướm lại cất cánh bay
đậu trên mũi, mùi thơm mía ngọt…
Cha Mẹ nhìn, con ngũ say sưa ..!
Cha Mẹ nhìn, con ngũ say sưa ..!
Một đời từng lê gót khắp sông hồ, nếm đủ vị đời hờn giận, nay mới biết, thì ra trong kiếp nhân sinh, không có bài hát nào hay hơn bài hát của mẹ bên nôi con thơ, dù rằng chẳng mấy ai còn nhớ tiếng ru của mẹ năm nào .!
Mua gà cúng đất, đất xui Mẹ giàu
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha thăm mẹ cò về thăm anh.
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha thăm mẹ cò về thăm anh.
Gió mùa thu… Mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm
Hỡi chàng… chàng ơi!
Hỡi người… người ơi!
Em nhớ tới chàng… Em nhớ tới chàng!
Hãy nín! nín đi con!
Hãy ngủ! ngủ đi con!
Con hời… con hỡi…Con hỡi… con hời… hỡi con!…
À ơi
Con cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
À ơi
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
À ơi
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục Đau lòng cò con.
Năm canh chầy thức đủ vừa năm
Hỡi chàng… chàng ơi!
Hỡi người… người ơi!
Em nhớ tới chàng… Em nhớ tới chàng!
Hãy nín! nín đi con!
Hãy ngủ! ngủ đi con!
Con hời… con hỡi…Con hỡi… con hời… hỡi con!…
À ơi
Con cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
À ơi
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
À ơi
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục Đau lòng cò con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét