Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2019

RICHARD NIXON, HENRY KISSINGER VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA.


Trong hình ảnh có thể có: 2 người, bộ vét


Cho đến nay thì có thể gọi đó là điểm sai lầm chiến lược của Mỹ, và hậu quả của nó ngày hôm nay mới thấy rõ. Trong khi đó, toàn dân miền Nam Việt Nam là nạn nhân đã hiểu rõ hơn ai hết về chính sách của Mỹ, qua cái bắt tay Mỹ-Trung Cộng, đã đưa đến việc Người Mỹ đã “hy sinh” miền Nam như thế nào.!
Người mà được TT. Nixon giao trọng trách nối lại mối liên hệ đứt đoạn giữa Mỹ và Trung Cộng từ hơn 20 năm, kể từ sau chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), không ai khác là tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn an ninh Quốc Gia của Nixon.
Trong Hồi ký của Kissinger ông cho hay ông đã qua lại TC như con thoi cả thẩy 50 lần để tiếp xúc với các lãnh đạo Trung Cộng như Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai.
Ông đủ khôn ngoan và láu cá khi cho rằng mục đích của các chuyến đi ấy chỉ vì muốn đi tìm kiếm hòa bình. ông viết:
"At the same time, all my life I have reflected on the building of peace, largely from an American perspective. I have had the good luck of being able to pursue these two stands of thinking simultaneously as senior official, as a carrier of messages, and as scholar.” (Henry Kissinger, “On China”, 2011)
"Đồng thời, cả cuộc đời tôi đã tìm kiếm về việc xây dựng hòa bình, phần lớn theo quan điểm của người Mỹ. Tôi đã có may mắn khi có thể theo đuổi hai việc này đồng thời là quan chức cao cấp, là một học giả, với tư cách là người chuyền tải thông điệp.
(Henry Kissinger, người hâm mộ Trung Cộng, 2011)
Ngay đoạn đầu tiên trong “Lời nói đầu” của cuốn “On China” (The Penguin Press, New York, 2011), tác giả Kissinger viết,
“Forty years ago almost to the day, President Richard Nixon did me the honor of sending me to Beijing to reestablish contact with a country central to the history of Asia with which America had had no high-level contact for over twenty years. The Ameri can motive for the opening was to put before our people a vision of peace transcending the travail of the Vietnam War and the ominous vistas of the Cold War.”
“Gần như đúng bốn mươi năm trước, Tổng thống Richard Nixon đã cho tôi vinh dự được đưa đến Bắc Kinh để tái thiết bang giao với một quốc gia là trung tâm trong lịch sử Châu Á mà nước Mỹ đã không có liên hệ cao cấp trong hơn hai mươi năm. Động cơ thúc đẩy Mỹ mở cửa với Trung Cộng là để trình bầy với nhân dân Mỹ một viễn tượng hòa bình vượt xa hơn cả những gì người Mỹ đang cố gắng trong Chiến tranh Việt Nam và những viễn cảnh đáng ngại của Chiến tranh Lạnh.”
Kissinger hơn ai hết đều hiểu rằng có một mối căng thẳng giữa Liên Xô- Stalin và sau này tiếp theo với Khruschev với Trung Cộng thời Mao Trạch Đông ngay từ Đại Hội Đảng của các nhà lãnh đạo Đông Âu ở Moskva vào năm 1957. Năm 1958, Khruschev đã phải thân hành sang Bắc Kinh để làm hòa dịu mối bất hòa giữa đôi bên.
Và đến tháng giêng năm 1972, TT Nixon sang Bắc Kinh. Cái bắt tay ấy tạo sự hòa dịu giữa đôi bên, đồng thời làm gẫy đổ một liên minh Sino-Soviet (Sự chia rẽ Trung-Xô (1956, 1966) là sự phá vỡ mối quan hệ chính trị giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) và Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô), vốn đã mong manh từ thời Stalindo, sự khác biệt về giáo lý nảy sinh từ sự khác biệt của họ)
Phải chăng, đấy là mục đích chính của Kissinger và TT Nixon, cô lập hóa sự liên minh giữa khối cộng sản với nhau? Và con đường tiếp cận với Mỹ mở ra cho TC một tương lai đầy hứa hẹn như ngày nay?
Có phải đây là chuyện "nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà hay chuyện tò vò mà nuôi con nhện"? Nixon đã không nhìn thấy mối hiểm nguy từ nước Tàu nên mua chuộc Tàu để làm giảm thế lực của khối cộng sản.
Vậy mà trong cả cuốn sách của ông Kissinger, dày 604 trang, xuất bản năm 2011, chúng ta không tìm thấy “một cái nhìn lại” chính sách sai lầm của Nixon như thế nào?
Nhưng trong một cuốn sách khác cũng của ông, “Henry Kissinger. À la Maison Blanche 1968-1973”, ông lại dành 98 trang để nói về cái mà ông gọi là “Les affaires du Viêt Nam” (Vấn đề Việt Nam). Ông viết:
“Cho mãi đến tận bây giờ, tôi không thể nói về Việt Nam mà không cảm thấy một nỗi phiền muộn, một nỗi buồn sâu xa nhất.” (H. Kissinger. Tại bạch ốc 1968-1973).
Trong suốt cả trăm trang tài liệu này, chúng ta thấy ông không tin tưởng chiến thắng cuối cùng nào của VNCH. Vì thế, ông đã ngỏ ý riêng với TT Nixon là mời Sainteny sang hội kiến với Nixon. Đó là ngày 15-7-1969. Và yêu cầu Sainteny, một nhà ngoại giao Pháp thân thiện với HCM, làm trung gian giao thiệp với Xuân Thủy một cách hoàn toàn bí mật. Nhưng Xuân Thủy chỉ là thứ công chức không có quyền quyết định gì. Người có quyền hành chính trị chính là Lê Đức Thọ.
Muốn hiểu cuộc thương thuyết và kết quả là Hiệp Định Ba Lê như thế nào, chúng ta có thể tìm đọc một cuốn sách khá đầy đủ của phe cộng sản, mà hai biên tập viên là: Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ nhan đề "Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ-Kissinger tại París”.
Tháng 8, năm 1969, TT Nixon và ông H. Kissinger đã sang Romania. Tại nơi đây, họ đã bàn thảo về mối liên hệ Đông-Tây, trong đó đề cập đến Liên Xô và Trung Cộng.
Đối với vấn đề Á Châu thì Nixon khẳng định rõ ràng, dứt khoát: Máu của người Mỹ phải ngừng chảy ở đây. Chiến tranh Việt Nam phải được Việt Nam hóa.
Đối với TC, lần đầu tiên, Nixon dùng chữ: Cộng Hòa nhân dân Trung Quốc. Đó chứng tỏ một hảo ý từ phía Nixon. Tiếp theo đó là những nhượng bộ nhỏ như công dân Mỹ đến nước Trung Hoa nay có quyền mua 100 đô la hàng hóa của Tàu mang về Mỹ. Các công ty Mỹ bắt đầu liên hệ thương mại với nước Trung Cộng.
Cũng vào tháng tư năm 1971, một phái đoàn thể thao Ping-pong của Mỹ đến Bắc Kinh. Năm 1971, Kissinger từ Pakistan sang Bắc Kinh gặp Thủ tướng Chu Ân Lai để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm chính thức của TT Nixon vào tháng 2-1972. Tháng 10, nước Tàu chính thức vào Liên Hiệp Quốc và công việc bình thường hóa giữa Mỹ với Trung Quốc, có nghĩa loại bỏ Đài Loan.
Một quá trình đối đầu căng thẳng và Mao Trạch Đông đánh giá công việc của Nixon đã làm là vô giá. Việc Nixon sang nước Tàu là một trong những biến cố lơn lao nhất được trình chiếu trên Vô Tuyến truyền hình và truyền thanh tại Trung Cộng cũng như trên toàn thế giới. Chuyện nầy được lập lại dưới thời TT Trump, về vấn đề Bắc Hàn. Đây có thể ví như một bước nhảy vĩ đại về chính trị giữa hai nước chẳng khác gì việc đặt chân lên mặt trăng của Mỹ.
Mao tuyên bố, “Thời gian và lịch sử đứng về phía chúng ta.”
Thật đúng vậy, nước Tàu được tất cả và Mỹ được gì? Mao nay có thể làm ăn buôn bán chẳng những với Mỹ và tất cả các nước Tây Âu khác theo chân Mỹ. Mối lo ngại tranh chấp biên giới với Nga cũng xẹp xuống cũng như với Ấn Độ. Tham vọng làm thay đổi thế giới, thay đổi con người dần dần lộ diện!
Phần Nixon đã gửi riêng cho Hồ Chí Minh một lá thư. Và cảnh ngoại giao đi đêm bắt đầu với đầy vẻ bí mật và mánh khóe che đậy như sang Paris là để gặp Tổng thống Pompidou lúc bấy giờ; chính ở Paris, ông Kisinger đi găp Sainteny.
Sự tiết lộ này của Kissinger cho thấy, chính quyền Nixon đã bán đứng Việt Nam Cộng Hòa cho cộng sản Hà Nội. Và Việt Nam hoàn toàn không biết gì cái giai đoạn khởi điểm này.
Xin trích lại nguyên văn:
“Nous optames pour la première suggestion. Une lettre personnelle de Nixon à Ho Chi Minh fut rédigée. Nous demandames à Sainteny de la remettre en mains propres. La lettre insistait sur notre volonté de paix, proposait de discuter des plans de Hanoi en même temps que des nôtres, et concluait en ces termes:
“L’heure est venue de s’acheminer, à la table de conférence, vers une résolution rapide de cette guerre tragique. Vous nous trouvenez disponibles, prêts à apporter avec vous, dans un effort commun, les bienfaits de la paix au courageux peuple du Vietnam. Que plus tard l’on puisse dire qu’en cet ínstant critique les deux parties ont choisi la paix plutôt que le conflit et la guerre.” (Henry Kissinger, À la Maison Blanhce 1968-1973, Fayard, 1979, trang 290-291).
Chúng tôi đã chọn giải pháp đầu tiên. Một lá thư riêng của TT. Nixon được thảo ra và được gửi cho Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã yêu cầu Sainteny đưa tận tay cho Hồ Chí Minh. Lá thư nhấn mạnh đến ý muốn của chúng tôi là mong muốn hòa bình và đề nghị thảo luận những kế hoạch từ phía Hà Nội và cả từ phía chúng tôi và lá thư đã được kết thúc bằng những dòng sau đây.
“Đã đến thời điểm phải đi đến bàn Hội Nghị để tìm ra một giải pháp nhanh chóng về cuộc chiến bi đát này. Quý ông sẽ thấy chúng tôi đã sẵn sàng trong một nỗ lực chung để đem lại những điều tốt đẹp về hòa bình cho người dân Việt Nam can đảm. Và để sau này người ta có thể nói rằng ngay trong những giờ phút khó khăn này, hai bên đã chọn hòa bình thay vì những xung đột và chiến tranh.”
Lá thư gửi đi ngày 15-7-1969 thì hơn tháng sau, HCM trả lời Nixon vào ngày 30-8-1969. (Chỉ ba ngày sau thì HCM chết) bằng một giọng điệu cứng rắn và sắt máu không thưa gửi Tổng thống như Nixon đã làm. Đại khái chúng tôi sẽ chiến đấu tới cùng không ngại những hy sinh và khó khăn gặp phải. Rồi yêu cầu này nọ đủ thứ.
Lá thư trả lời của Hồ Chí Minh có một phần nội dung như sau:
“Dân tộc Việt Nam chúng tôi rất tha thiết vào hòa bình, một hòa bình thực sự với sự dành được độc lập và tự do. Dân tộc Việt Nam cũng quyết tâm chiến đấu đến cùng, không ngaị hy sinh hay những khó khăn gặp phải, để bảo vệ sự sống của mình và bảo vệ những quyền lợi thiêng liêng của đất nước. Chương trình tổng quát 10 điểm, do Mặt trận thống nhất dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và của chính quyền Cách Mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là cơ sở căn bản hợp lý để giải quyết vấn đề Việt Nam. Chương trình ấy được sự hưởng ứng đồng thuận và ủng hộ của các dân tộc trên toàn thế giới.
Ngài đã viết trong lá thư bày tỏ ý muốn đạt tới một nền hòa bình dựa trên sự công bằng. Từ đó, Chúng tôi yêu cầu phía chính quyền Mỹ phải chấm dứt việc xâm lấn và rút quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam và tôn trọng quyền của dân chúng miền Nam cũng như tôn trọng quyền của người dân miền Nam mà không có sự can thiệp của người ngoại quốc. Đó là cách thức đứng đắn để giải quyết vấn đề Việt Nam.”
(H. Kissinger À la Maison Blanhche, 1968-1973, trang 295)
Lá thư mà nội dung toàn là những lời lẽ khuôn mẫu thuộc lòng và khô lạnh, không một chút hé lộ bất cứ một sự nhượng bộ dù nhỏ nhoi nào. Đòi Mỹ rút quân, nhưng không đả động gì đến việc đòi quân đội cộng sản rút về Bắc.
Tuy nhiên, theo Cheng Guan Ang viết trong cuốn “Ending the Vietnam War: The Vietnamese Communists' Perspective” do Routledge xuất bản năm 2004, ở trang 26:
1/ Mỹ nhận được thư của Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 8, 1969; 2/ Hồ không đọc và cũng không trả lời thư của Nixon;
3/ Vũ Kỳ, thư ký của Hồ Chí Minh, cho biết vào cuối tháng 8 Hồ Chí Minh đã không còn sức làm việc, không tiếp phái đoàn Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam ra miền Bắc từ 16-20. Tin của Trung Cộng cho biết bệnh tình của Hồ đã nguy kịch vào cuối tháng 8 và đã hôn mê, rồi sau đó chết vào ngày 2 tháng 9, 1969. Do đó có thể cho rằng lá thư Nixon nhận được không thể nào do Hồ Chí Minh viết.
Trong khi quân đội VNCH vẫn xả thân chiến đấu thì trên Bàn Hội Nghị, phía Hà Nội đòi hỏi loại bỏ Thiệu, Kỳ và Hương để lập một chính phủ Liên Hiệp trước khi họ muốn nói chuyện.
Chủ nghĩa Bá quyền Trung Cộng.
Với nhiều bí mật trong khối cộng sản Quốc Tế. Do là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, làm việc dưới nhiều đời Tổng Bí Thư cộng sản, giao thiệp nhiều, khôn ngoan và lịch thiệp nên quen biết hầu hết các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới ở cả hai phía.
Mỹ nhận thấy có nhiều điểm tương đồng giữa ngoại trưởng Gromyko thời Stalin và Thủ tướng Chu Ân Lai.
Trong hồi ký của Gromyko, phần dành cho vấn đề bang giao giữa Liên Xô-TC là một trong những tài liệu quý hiếm. Đọc phần tài liệu này, mặc dầu không nhiều, nhưng cũng giúp người đọc nắm được phần nào mối liên hệ tay đôi của hai nước cộng sản anh em, và giúp hiểu rõ hơn, tại sao Hoa Kỳ đã bắt tay với Mao Trạch Đông.
Mối liên hệ Stalin-Mao Trạch Đông lạnh nhạt và đi đến đối đầu
Cho đến nay thì người ta thấy rằng trong khoảng 70 năm trước đây, kể từ khi Mao Trạch Đông thống nhất toàn bộ nước Tàu, mối liên hệ Nga-Hoa không bình thường.
Bỏ qua những vấn đề nội bộ của hai bên, người ta thấy có thể có một xung đột về cá tính giữa Mao-Stalin. Mao Trạch Đông luôn giữ tính cách độc lập trong mọi chính sách nội bộ cũng như sự giao thiệp với các nước khác. Không hề bàn thảo hay thông báo cho nước cộng sản anh em Liên Xô những gì mà Trung Cộng làm.
Lần đầu tiên khi lên nắm chính quyền vào năm 1949, Mao Trạch Đông có sang Liên Xô từ tháng 12-1949 đến tháng 2-1950.
Mặc dầu chính quyền Liên Xô tổ chức một buổi đón tiếp rất trọng thể, tỉ mỉ từng chi tiết một để biểu lộ tình bạn bè giữa đôi bên. Hai bên cũng đã có thỏa thuận với nhau trong mối quan hệ giữa hai đồng minh để ký vào ngày 14-2-1950 trước khi Mao Trạch Đông về nước.
Thế nhưng đó có thể chỉ là việc trên giấy tờ, mà nội dung cụ thể vẫn là phải tiến hành trên bình diện con người.
Một bữa tiệc đã được tổ chức tại khách sạn Metropolitain do Stalin và các ban lãnh đạo Sô Viết chủ trì. Gần như hai vị lãnh đạo hai nước hầu như không nói với nhau.
Vài ngày sau, tình trạng lạnh nhạt ấy cũng không thay đổi gì.
Sang đến 1957, tình trạng lạnh nhạt giữa đôi bên nay không còn là giữa hai nhân vật mà là giữa hai nước càng ngày càng trở nên tồi tệ hơn.
Mao Trạch Đông lại sang Moskva lần thứ hai. Và lần này gặp riêng Gromyko. Mao hứa không làm cho tình trạng đôi bên căng thẳng hơn và cần phải sát cánh bên nhau để tranh đấu cho hòa bình.
Cũng theo sự nhận xét riêng của ông Gromyko thì Mao mong muốn TC trở nên một siêu cường, nhất là trong lãnh vực kinh tế. Và ông cứ nhắc đi nhắc lại: Mỹ chỉ là một con hổ giấy. Ông trù liệu là Mỹ có thể dùng bom nguyên tử tấn công nước Tàu. Và ông chờ đợi điều đó xảy ra và để cho quân đội Mỹ lấn sâu vào trong đất liền, lúc đó Mao mới ra tay. Gromyko sững sờ khi nghe Mao trình bày như vậy về cách thí quân.
Tháng 10, năm 1959, một phái đoàn Liên Xô một lần nữa sang Bắc Kinh. Dẫn đầu là Khrushchev cùng với các Suslov, Nikolaev và Gromyko.
Một lần nữa, nhiều bất đồng nữa nổi lên giữa đôi bên. Trong đó có tranh cãi về việc khai thác nguồn lợi thiên nhiên tại sông Amurn và việc thiết lập một đường xe lửa qua các vùng Xinjiang-Uyghur-Kazakhstan.
Với một biên giới rộng và trải dài như vậy, cộng thêm rất nhiều tài nguyên thiên nhiên, cộng thêm vốn liếng văn hóa cổ truyền bắt buộc hai bên phải ngồi lại thảo luận để nhìn nhận nhu cầu quan trọng của láng giềng và tình bạn. Phải củng cố tình bạn giữa các nước XHCN.
Trong cuốn Hồi ký của một nhà ngoại giao như Gromyko, ông đề cập đến mọi vấn đề tranh chấp Quốc tế cũng như những nhà lãnh đạo cả hai phía. Vậy mà, không nói đến chiến tranh Việt Nam cũng như các nhà lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, v.v...Điều đó cho thấy Stalin và cả Gromyko có vẻ coi thường và không cần che dấu sự đánh giá thấp lãnh đạo miền Bắc như những kẻ án bám. Đây hẳn là một nỗi nhục của đám lãnh đạo miền Bắc, mỗi lần sang chầu chực nhờ vả Liên Xô. Việc Hồ Chí Minh sang Liên Xô mà mới đầu Stalin không muốn tiếp, điều đó ai cũng biết cả.
Sự coi thường ấy hiểu được vì họ chỉ là thứ ăn mày đi nhờ vả kẻ mạnh. Việt Nam là con số không đối với Gromyko và nhất là đối với Stalin. Đấy là điều nhục nhã cho tập đoàn cộng sản Hà Nội.
Trong cái dở có cái may Sự tranh chấp đối đầu giữa Stalin và Mao Trạch Đông là một sự kiện hiển nhiên. Stalin còn tìm cách đỡ đầu Lâm Bưu để tìm cách lật đổ và ngay cả ám sát Mao Trạch Đông. Nhưng công việc bất thành. Moskva còn tấn công TC bằng ngoại giao ve vãn các nước tư bản như qua các tòa đại sứ Mỹ tại Washington, tại Paris, tại Bonn và Londres về thảm họa Péril jaune (Hiểm họa da vàng, tiếng Anh: Yellow Peril). Không biết nhóm từ này có phải do Liên Xô đưa ra hay không?
Trong cuộc tranh chấp giữa đôi bên về hòn đảo Chen Pao. Người TC đã vận dụng các cuộc biểu tình lên đến 300 triệu người với biểu ngữ: “Đả đảo bọn Nga Hoàng mới.”
Thời Brezhnev, tháng giêng 1967. Ông ra lệnh cho điều 13 sư đoàn lính Nga dàn quân ra biên giới trước hiểm họa Cuộc Cách mạng văn hóa của Tầu..
Ở vào thế kẹt trong vụ tranh chấp giữa hai quan thầy, vì thế, trong chúc thư để lại trước khi chết vào đầu tháng 9, họ Hồ mong mỏi hai nươc đàn anh tìm được sự hòa giải.
Đại diện trong đám tang Hồ Chí Minh, có Chu Ân Lai về phía Tàu, Kosygin phía Nga hẳn là cả hai đều đã nhận được chúc thư của Hồ Chí Minh.
Trên đường trở lại Nga, Kosygin đã ghé qua Bắc Kinh gặp Chu Ân Lai và họ Chu đã đưa ra ba đề nghị: Giữ tình trạng về tranh chấp biên giới; giải giới quân đội hai bên ở một khoảng cách chiến lược, ở những điểm nhạy cảm để tránh các cuộc nổ súng; chấm dứt các vụ tuyên truyền đả phá trên báo chí, đài phát thanh trong thời gian hai bên thương thuyết, v.v..
Cuối cùng chẳng biết việc ám sát Mao có thật hay giả, con “gà nòi” Lâm Bưu cùng với vợ là Yeh Chun, người con trai là Lin Likuo và 6 đồng chí khác đã tẩu thoát trên một chiếc máy bay Trident. Nhưng chẳng may máy bay bị rớt ở Nội Mông, tại vùng Oundour Khan. (Han Suyn. “Le premier jour du monde”, Stankes/Stock các trang từ 417- 423)
Chính sự tranh chấp giữa hai nước XHCN Tàu và Liên Xô đã mở đường cho nước Tàu có một địa vị trong thế giới tự do mà trước đây họ không thể có. Trước đây, nước Tàu trù tính có thể phải đối đầu cùng một lúc với bốn kẻ thù là: Mỹ, Liên Xô, Ấn Độ (theo Liên Xô), Nhật (ngả về phía Mỹ).
Chu ân Lai nói: "Nước Tàu phải sẵn sàng, trong mọi trường hợp đẩy lui sự xâm chiếm của một trong hai siêu cường, hoặc hai siêu cường cùng một lúc. Và trong một tình huống tệ hơn, nước Tàu phải đối đầu với 4 nước cùng một lúc."
Tình huống ấy đã không xảy ra vì cú bắt tay với Nixon! Phải nói là trong cái rủi có cái may cho nước Tàu, nhờ đó có cơ hội trở thành cường quốc trên thế giới.
Bởi vì dưới mắt Mao Trạch Đông, Á Châu phải do người Á Châu tự giải quyết. Vì thế, để chuẩn bị cho tình huống có thể xảy ra. Mao Trạch Đông đã kêu gọi dân Tàu: Hãy đào sâu các đường hầm, hãy tích trữ ở khắp nơi lúa gạo.v.v...” Vì thế, mọi thành phố đều đào những đô thị ngầm dưới đất có tích trữ lương thực đầy đủ. Cho dù chiến tranh không xảy ra đi nữa thì tốt hơn hết cứ đề phòng những tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Vậy mà có một chiều hướng chính trị thuận lợi đã làm thay đổi tất cả.
Một nước Tàu ngày hôm nay, một tham vọng bá chủ toàn cầu theo đúng tham vọng của Mao Trạch Đông đề ra ngay từ khi làm chủ nước Tàu năm 1949. Nhưng lời căn dặn của Đặng Tiểu Bình dặn các thế hệ sau: Hãy kiên nhẫn, ẩn mình. Phải chăng lời căn dặn ấy vẫn còn có giá trị. Phải chăng cái tội lớn nhất của Tập Cẩn Bình là phô trương quá lộ liễu sức mạnh kinh tế lẫn quân sự làm mất niềm tin nơi nhiều quốc gia chậm tiến?
Cái sai lầm về chính sách của Nixon bắt tay Tàu, chia rẽ hai đại cường cộng sản nay còn có chút hy vọng Mỹ tìm lại được sức mạnh vốn có của mình nhờ sụ liên minh với phần đông các nước kỹ nghệ cả trên đất liền và cả trên biển, nhất là trên biển với liên minh cùng Ấn Độ? Hơn một tỷ người TC được thay thế với hơn một tỉ người Ấn Độ ?
Nói tóm lại, vì quyền lợi mà Mỹ đã bỏ rơi VNCH, sau cú bắt tay giữa Nixon và Mao trạch Đông (1972), tiếp đến (1974) bán đứng Hoàng Sa, năm (1988) TC đánh chiếm đảo Gạc Ma ờ Trường Sa. Trong tương lai, toàn bộ Biển Đông là của TC, để đổi lấy sự ảnh hưởng của Mỹ đối với Bắc Hàn và Đài Loan, cũng như sự tự do hải hành trên biển Đông của Mỹ và các nước phương Tây...Số phận các nước nhược tiểu đều chịu chung một số phận "thiệt thòi, thua lỗ".
Vì đó, chính là một chọn lựa khôn ngoan nhất đối với chính sách xoay trục của Hoa Kỳ hiện nay, để thấy ai xử dụng được sức mạnh mềm thì kẻ đó sẽ thắng.

- NIXON & KISSINGER

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét