Bệnh
cao huyết áp, còn gọi nôm na là “bệnh cao máu,” là tình trạng áp suất máu tăng
cao thường xuyên và kinh niên, và còn là một bệnh xảy ra nhiều nhất. Bệnh cao
huyết áp thường không có triệu chứng gì rõ ràng cả và ít khi được phát hiện sớm.
Bệnh này là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến trụy tim, tai biến não, suy thận, và
nhiều bệnh trầm kha khác.
Triệu chứng
Đa
số bệnh nhân chỉ biểu hiện triệu chứng khi mà tình trạng bệnh đã khá nặng và
đang dẫn đến những hư hại đáng ngại. Trong nhiều trường hợp, dấu hiệu đầu tiên
của bệnh cao huyết áp là bị trụy tim hay tai biến não đột ngột, vì thế bệnh còn
có tên là “kẻ giết người thầm lặng.”
Bệnh
cao máu được phân loại thành hai thời kỳ tùy theo áp suất máu:
Thời
kỳ 1:
- Chỉ số trên tâm thu (systolic pressure) trong khoảng
130 đến 139 mm thủy ngân
(mmHg).
- Chỉ số dưới tâm trương (diastolic pressure) trong khoảng 80 đến 89 mmHg.
Thời
kỳ 2:
- Chỉ số trên (systolic pressure) cao hơn >139 mm thủy ngân mmHg.
- Chỉ số
dưới (diastolic pressure) cao hơn > 89 mmHg.
Ngoài ra, còn
có một tình trạng cao máu nhẹ thời kỳ sớm (prehypertension)
- Khi chỉ số trên
(systolic pressure) trong khoảng 120 đến 129 mm thủy ngân (mmHg).
- Chỉ số dưới
(diastolic pressure) thấp hơn < 80 mmHg.
Triệu
chứng của cả ba giai đoạn cao huyết áp thường ít khi xảy ra, nhưng có khi bao gồm:
nhức đầu, chóng mặt, chảy máu mũi, nôn ói, khó thở, mắt mờ.
Ngoài
ra còn một tình trạng cao huyết áp độc hại (malignant hypertension) còn gọi là
cao huyết áp khẩn cấp khi mà huyết áp rất cao làm cho mạch máu bị vỡ và đi kèm
với suy yếu của ngũ tạng, thí dụ như chảy máu mắt, truỵ tim, tai biến não, hay
suy thận.
Triệu
chứng khẩn cấp gồm có: chóng mặt, bất tỉnh, đau ngực, nghẹt thở, lòa mắt, yếu
hay bị tê các bắp thịt mặt hoặc tứ chi.
Nguyên nhân
Có
hai nguyên nhân: cao máu nguyên thủy còn gọi là cao máu cấp một (primary
hypertension) và cao máu vì bệnh khác, gọi là cao máu cấp hai (secondary
hypertension).
Cao
huyết áp cấp một gồm những tình trạng cao tuổi, đàn ông, béo phì, cao mỡ, cao
cholesterol. Phụ nữ thường bị cao huyết áp sau khi nghỉ kinh. Cao máu nguyên thủy
thường xảy ra trong gia đình có bệnh sử cao huyết áp.
Cao
huyết áp cấp hai có thể gây ra bởi bệnh thận, ngủ bị nghẹt thở (sleep apnea),
nghẽn động mạch chủ (coarctation of the aorta), các bệnh về mạch máu thận, bệnh
về hệ thống nội tiết, do sử dụng thuốc ngừa thai, hút thuốc lá, uống rượu, uống
thuốc giảm đau kinh niên, và uống thuốc an thần chống trầm cảm.
Nói
chung chung, cao huyết áp thường phát triển không có một lý do nào rõ rệt cả,
và thường trở nặng hơn theo năm tháng.
Lý do thường gặp nhất:
1- Tuổi
tác
Nguy
cơ bị cao huyết áp tăng dần với tuổi tác, lên hệ đến sự mất tính đàn hồi co
giãn của mạch máu, bị thay đổi hormone như khi nghỉ kinh, và bị nhạy cảm với muối
có trong thức ăn.
Một
người trong độ tuổi 30 có thể bị cao máu nhẹ, và áp suất máu tăng dần. Nếu bị
cao huyết áp trước tuổi 50 thì nguy cơ bị đột quỵ tim hay tai biến não sẽ tăng
cao. Nếu không được chữa trị, bệnh cao huyết áp sẽ làm giảm tuổi thọ độ 10 năm.
2- Phái
tính
Bệnh
cao huyết áp thường xảy ra cho đàn ông nhiều hơn là đàn bà cho đến độ tuổi 45.
Từ 45 đến 64 tuổi phần trăm bị cao máu là ngang nhau cho cả hai phái, và phái nữ
bị cao huyết áp tăng nhiều hơn sau tuổi 55.
3- Chủng
tộc
Người
gốc Phi Châu và người gốc Châu Mỹ La Tinh dễ bị cao máu hơn là người da trắng.
Người da vàng gốc Châu Á tương đối ít bị cao huyết áp. Tuy nhiên ngoài lý do chủng
tộc, nguy cơ bị cao huyết áp vẫn tùy thuộc vào cách ăn uống, và nếp sống.
4- Bệnh
thận
Bệnh
thận kinh niên có thể ảnh hưởng đến thể tích máu và làm tăng áp suất máu.
5- Bệnh
tiểu đường
Bệnh
nhân bị bệnh tiểu đường thường hay bị suy thận. Tuy nhiên có nhiều người
bị cao máu trước khi bị bệnh cao đường trong máu.
6- Các
bệnh về tuyến nội tiết
Bệnh
về tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận, và tuyến yên (pituitary disease) làm
cho hormone bị thay đổi dẫn đến cao huyết áp.
7- Thuốc
men
Một
số thuốc men có thể làm tăng huyết áp thí dụ như steroids, thuốc ngừa thai, thuốc
trị nghẹt mũi, thuốc có chứa caffeine, thuốc an thần và nhiều loại thuốc khác.
Lý do di truyền
Yếu
tố di truyền đóng vai trò quan trọng gây ra bệnh cao huyết áp nhất là tình trạng
cao huyết áp nguyên thủy, cấp một. Yếu tố di truyền nắm khoảng 30 đến 50% nguy
cơ cao huyết áp. Người ta vẫn chưa tìm ra một gene nào cụ thể quy định bệnh cao
huyết áp, nhưng có thể là một tập hợp nhiều gene khác nhau. Nếu trong gia đình
có người bị cao huyết áp thì nguy cơ bị bệnh sẽ tăng cao.
Nề nếp sống
Hút
thuốc lá là lý do thông thường nhất gây ra bệnh cao huyết áp. Thuốc lá làm cho
mạch máu bị hẹp lại, mất tính đàn hồi và dễ bị lở loét động mạch.
Ăn
đồ mặn, nhiều muối là lý do đứng hàng thứ hai. Một số người có thể ăn mặn
nhưng không bị cao máu, tuy nhiên thực phẩm của người Việt chúng ta có rất nhiều
muối. Có khi ăn không thấy mặn lắm nhưng lại có rất nhiều muối, thí dụ như nước
phở, bún, mì chẳng hạn.
Bị
stress thường xuyên cũng làm tăng huyết áp do ảnh hưởng của các hormone stress
thí dụ như epinephrine, norepinephrine, cortisol. Các hormone nầy làm co hẹp động
mạch cũng như thay đổi phẩm chất của động mạch, dễ bị lở loét, bị nghẽn.
Tương
tự như thuốc lá, rượu và ma túy, ví dụ như cocaine, heroin, và methamphetamine
cũng làm tăng huyết áp. Tuy nhiên các loại ma túy thường đưa đến tình trạng cao
máu khẩn cấp hơn là cao máu kinh niên.
Cuối
cùng, thiếu vận động sẽ gây ra béo phì, thay đổi tình trạng hormone, làm tác động
lên hệ thống máu.
Một
cách tổng quan, bệnh cao huyết áp có thể giết người thầm lặng, nhưng cũng may
là hầu hết các nguyên nhân đều có thể ngăn ngừa, tránh được để giảm ức độ nguy
hiểm. Nên thường xuyên đo áp suất máu và lưu tâm đến cách phòng chống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét