…“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” (Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan1805-1848)
CỐ GẮNG VƯỢT QUA
"ĐÈO BÀ HUYỆN".!
Vách núi bên đèo đá phủ đầy
Thôi đành dan mặt với trời mây
Thơ Bà Huyện viết đèo Ngang đó
Lá cỏ chen hoa đá vướng giày Mặc đá cản cây ta vẫn bước
Trèo non cho thỏa đấng râu mày
Tên đề vách núi cho đời biết,
Ta đã lên đèo Bà Huyện đây!
- Mặc dù đảng CS dùng CA (đá) để cản đường (cây) tranh đấu;
Nhưng chúng ta bằng mọi cách phải vương lên cùng Đất Trời.
-
Không chịu khuất phục như xã hội phong kiến đương thời, mà Bà
Huyện đang sống; Vì những thành phần quan lại xu nịnh, toàn
những lá cỏ hoa dại và những đá dăm đã vướng chân Bà.
-
Nhưng trong thời đại toàn cầu ngày nay, thành phần tuổi trẻ yêu
nước nhất là đấng mày râu, không được chùn bước trong giai
đoạn "dầu sôi lử bỏng", chỉ có một con đường "Tiến lên để
Sống; Lùi lại là Chết". Đế nói về một quan niệm sống cần phải có
nghị lực, ý chí, từ đó Bác Học (nhà uyên bác về văn học) Nguyễn
Bá Học đã nói:"Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi
mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Được sinh ra trên đời là
một diễm phúc đối với mỗi con người. Thế nhưng để tồn tại và sống cho
đúng nghĩa, con người luôn phấn đấu để thật sự “thành người” là cả một
thời gian dài đấu tranh.
- Khi tranh đấu đã thành công, vượt
qua và lên tới đỉnh đèo rồi. Khi đó, chúng ta sẽ hãnh diện,
vì đã đóng góp công sức cho đất nước trong giai đoạn nầy.
Chỉ với hai câu trong tuyệt tác Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan đã
tả tất cả cái lòng yêu nước, yêu quê hương đất nước. Nhưng tại sao đau
lòng khi nhớ nước? Tại sao mỏi miệng khi thương nhà? Phải chăng nữ sĩ
muốn nói đến cái tâm trạng của những kẻ sĩ thời bấy giờ bó tay, thất thế
trước thời cuộc, phải phục vụ làm tôi cho một chế độ mà không phải do
bà và thân thuộc hay người cùng xứ bà chấp thuận? Phải bỏ xứ Bắc Hà vào
Nam, tâm trạng “Hoài Lê” là tâm trạng chung của những kẻ sĩ Bắc Hà thời
ấy không phục nhà Nguyễn. Hai cặp chữ “Nhớ Nước-Thương Nhà” biểu hiện
tình Yêu Nước.
Tâm trạng “Hoài Lê” của kẻ sĩ Bắc Hà thời ấy khác
chi ngày nay, kẻ sĩ Sài gòn, hay những người ái quốc Việt Nam đang “Hoài
nhớ cái thời Việt Nam Cộng Hòa” đang “Hoài nhớ cái chế độ Quốc Gia Việt
Nam” ta vậy!
1/ Lòng Ái Quốc: nhản hiệu phổ thông, bị lạm dụng nhiều nhứt!
Cả mấy tuần qua, người Pháp hay người Việt, tại Pháp, cũng như thế
giới đang chăm chú lo lắng theo dõi những cuộc xuống đường, biểu tình,
chận đường của những người công dân Pháp bất mãn. Phong trào tự phát, tự
lập, không có tên chính trị, để dễ nhận diện nhau, họ tự gọi họ là
“Phong trào áo vàng” (Mouvement des gilets jaunes), họ xuống đường, họ
ra đường, nhóm họp, tụ tập, và mỗi ngưới khoác “chiếc áo vàng”, chiếc áo
dễ tìm, (vì là chiếc áo bắt buộc phải có trong mọi chiếc xe, và phải xử
dụng khi xe gặp tai nạn, phải xuống xe và khoác lên người để các xe
khác dễ nhận diện). Họ xuống đường, biểu tình, để nói lên tiếng nói đòi
hỏi, phẫn uất, bất mãn, là một thái độ dân chủ, và do đó cũng thể hiện
một quyền công dân, một thái độ YÊU NƯỚC!
Nước Pháp một quốc gia
dân chủ, cũng như mọi quốc gia tiên tiến nơi mà quyền Tự Do Ngôn Luận,
nơi mà tiếng nói Dân Chủ được tôn trọng lên hàng đầu… Mọi công dân bất
mãn hay không đều có quyền xuống đường phản đối hay ủng hộ. Nước Pháp
hằng năm có cả chục lần xuống đường. Xuống đường biểu tình do một chánh
đảng tổ chức cũng có, do một nghiệp đoàn lao động cũng có, do tự phát
cũng có. Xuống đường biểu tình phản đối đòi hỏi cũng có, xuống đường
biểu dương lực lượng một phong trào – nữ quyền, đồng tính tự do luyến
ái, sanh sản nhân tạo cũng có.
Và ngày nay, có cả những xuống
đường “chia buồn” – marche blanche – đồng hành trắng – đồng hành chia
buồn đứa con bị mất tích, cô vợ bị hành hung, người vô tội cũng có – đứa
trẻ bị bắt cóc hảm hiếp, nhưng kẻ có tội cũng có, du côn du đảng, đánh
lính bị lính bắt chết. Ở Pháp, đánh cảnh sát thì chỉ 2 tháng tù treo,
nhưng nếu du côn, du đảng phá làng phá xóm, chẳng may bị lính, cảnh
sát bắn chết (Tây gọi là bavure – lỡ tay), thì cả làng, cả báo chí chê
bai, xuống đường biểu tình bất mãn, Toà đành phải phạt anh lình vô phước
nầy thôi!… Dân chủ là thế, làm bậy dân chê! Xuống đường, ngày nay, là
tiếng nói thực sự của người dân. Xuống đường phản đối chánh phủ, xuống
đường đòi hỏi chánh phủ, nhưng cũng xuống đường ủng hộ nữ quyền, xuống
đường ủng hộ tự do kết hôn… vân vân. Tiếng nói của đường phố, từ nay ở
các quốc gia tiến tiến là một quyền công dân cũng như lá phiếu, cũng như
hội họp, thành lập đảng phái chánh trị.
Khác hẳn với các quốc
gia độc tài như Việt Nam ta, Cộng sản cầm quyền thì khác hẳn. Cấm tất
cả! Cấm mọi quyền! Chỉ trích đã đành, bàn tán cũng không, và càng cấm
quyền biểu hiện hay quyền biểu quyết. Cấm nói ý nghĩ của mình, và đặc
biệt tư tưởng chánh trị, và càng cấm đòi hỏi chánh trị và cấm bàn thảo
chánh trị. Do đó NÓI LÁO là thái độ duy nhứt để tồn tại. Nói láo là
chánh, nói láo với gia đình, với hàng xóm, với nhà cầm quyền. Và vì
ngược lại, Nhà cầm quyền chẳng những cũng nói láo, mà có cả một CHẾ ĐỘ
NÓI LÁO với người dân. Láo đến cả hàng hóa cũng láo, cũng dỏm, thực vật,
món ăn cũng dỏm… Hàng hóa Tàu và hàng hóa Việt ngày nay là nơi nhiều
hàng nhái hàng dỏm nhứt thế giới, và họ cũng là những ông vua, những thợ
thủ công bực nhứt thế giới về hàng nhái… từ điện thoại, đồng hồ sang
trọng, đến quần áo, giày dép bình thường… tất cả đều được biến thành
hàng nhái, hàng dỏm. Thường tình là made in China, và made in VietNam.
Do đó những cách biệt, lằn ranh, khác biệt tư tưởng, não trạng, tâm lý,
đời sống, nhân sinh quan, chủ nghĩa như Quốc Gia/ Cộng Sản; Tự Do – Tư
Bản/ ĐộcTài Cộng Sản Xã hội; Hàng thật – Hàng Chánh/ Hàng Giả – Hàng
Nhái; phong cách Mỹ – Âu – Nhựt/ Tàu – Việt… ngày nay đã hợp nhứt cùng
một lằn ranh.
Cũng vì thế, tình Yêu Nước, lòng Ái quốc thường
được ca tụng, được xử dụng như một, khẩu hiệu, một nhản hiệu phổ thông,
lịch sử, để kêu gọi những cuộc nổi dây để cứu quốc, để giữ nước, từ bao
nhiêu năm nay, từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam, Âu Á Mỹ Phi, chỉ là
những lời kêu gọi lường gạt, khi thì để nổi dậy lật đổ một chính quyền,
khi thì dùng để tấn công xâm đoạt một đất nước – Đức chống Pháp Anh –
khi thì để giữ nước – còn có khi, thì chỉ để phục vụ một ý thức hệ quốc
tế phục vụ quyền lợi một Đảng Chính trị để cướp chánh quyền. Việt Minh
Cộng Sản Đệ tam Quốc tế, thừa lệnh, để nhuộm đỏ, cộng sản hóa Đông Nam
Á!
2/ Yêu Nước-Thương Nhà và Người Việt Quốc Gia:
Các đây
trên 43 năm, chúng ta những Người Việt Quốc gia, vì Yêu Nước, vì Thương
Nhà, tuy phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày, vẫn hy sinh, tay súng,
tay cầy, quay quần, cùng nhau, bảo vệ, bám trụ, vào mãnh quê hương cuối
cùng, Miền Nam Việt Nam, một phân nửa Nước «còn lại», vừa là Nhà, nơi
"chôn dau cắt rún", cũng vừa là Nhà, nơi tỵ nạn của một triệu đồng hương
anh chị em miền Bắc mới di cư vào tá túc, tất cả chỉ để chống độc tài
Cộng Sản Đỏ. Và không một người bỏ xứ ra đi, xuất ngoại, vượt biên, tỵ
nạn xứ người!
Độc tài Đỏ, Cộng sản chủ nghĩa cũng nhơn danh, mất
dạy, lường gạt dùng Lòng Yêu Nước, xô quân, vượt tuyến, tràn vào Nam để
trùm cái gông cùm Cộng sản vào chúng ta.
Cái lạ lùng là tất cả
những tên độc tài Đỏ, hay độc tài Đen, Cộng sản hay Phát Xít Nazi đều tự
vỗ ngực xưng là những nhà Ái Quốc!
Còn người Dân Chủ chúng ta,
mắc cở cái miệng, không dám tuyên bố mình là Nhà Ái Quốc e rằng mình
không đủ khả năng Yêu Nước thật sự chăng! Đó là cái nghịch lý lớn!
Nói như vậy, để nói rõ rằng Tình Yêu Nước – lòng Ái Quốc là một từ ngữ
bị nhiều lạm dụng nhứt. Nhơn danh Yêu Nước, Hồ Chí Minh thí chốt dân
lành, giết hại thương vong bao nhiêu thế hệ thanh niên thanh nữ Việt Nam
– thí bao thế hệ con em miền Bắc vượt Trường Sơn, đi xâm chiếm đất nước
cướp quyền lãnh đạo, thí cả con em miền Nam phải lo bảo vệ quê hương.
Nhơn danh Yêu Nước Hồ Chí Minh giết và thủ tiêu bao nhiêu người ái quốc
nhân tài. Nhân danh Yêu Nước, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã
chấp nhận bán đứng, nhuộm đỏ đất nước cho Trung Cộng, hậu duệ các triều
đại Hán tộc Bắc phương bành trướng! Bán cả đất đai biên giới, giao cả
lãnh hải, thậm chí giao phó bao sanh mạng đồng bào chiến sĩ cho ngoại
nhân Tàu thay mình cầm quân ra trận. Tàu Cộng xử dụng chiến thuật biển
người giết bao nhiêu thanh niên Việt Nam chỉ để đánh chiếm một căn cứ
không có gì là một tầm vóc chiến lược như Điện Biên Phủ, (chiến thắng
Điện Biên Phủ là do hai tướng Tàu điều khiển chứ chẳng phải của Võ
Nguyên Giáp). Nhơn danh Yêu Nước, Hồ Chí Minh chấp nhận phá tan đất nước
miền Bắc để thắng Mỹ. May mà Mỹ nhân đạo, chiến tranh hạn chế, có bom
nguyên tử nhưng không dùng đến, không đánh các đê điều khi mùa lũ, không
đánh bom tàn phá Hà nội (thử so sánh với với những cuộc dội bom của Đức
xóa sổ thành phố Coventry ở Anh, hay cuộc đánh bom của đồng minh ở
Dresden, Đức, hay Mỹ đánh bom nguyên tử ở Hiroshima Nhật trong Thế Chiến
2!). Vì vậy ngày hôm nay, khi nghe Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nói Yêu Nước, chúng ta rất sợ! Và chúng ta hãy
nhớ những khẩu hiệu định nghĩa Yêu Nước của Cộng sản như “Yêu nước của
Cộng sản là Yêu Xã hội Chủ Nghĩa” hay “Trung thành với Nước là Trung với
Đảng”. Làm sao chúng ta có thể tin vào lòng Yêu Nước của Đảng Cộng sản
Việt Nam?
Dân Syrie dám chết để đòi Độc lập. Dân Việt Nam ngày
xưa do Cộng sản quốc tế xúi, dám chết để Chống Mỹ Cứu Nước. Ngày Nay có
ai dám chết để Chống Tàu cứu Nước không?
Dân Việt Nam có dám liều chết bảo vệ dân chúng và đất nước Việt Nam không?
Riêng chúng tôi, người hải ngoại, nói “Nhớ Nước-Thương Nhà” có lẽ đúng
hơn! Nói như vậy chúng tôi không phủi tay, "mặc kệ nó", mà chúng tôi
chỉ làm, khi người Việt Nam, người dân Việt Nam trong nước, nếu thật sự
là người Việt Nam Yêu Nước, phải làm!
Bé cổ thấp miệng thì cũng
phải xuống đường biểu tình đòi Nhà cầm quyền Cộng sản phải lấy trách
nhiệm, hoặc đánh Tàu, hoặc giao quyền cho người khác, cho người dân,
chúng tôi ngoài nầy chỉ là vũ khí tuyên truyền, là vận động dư luận, vũ
khí là kêu gọi bạn bè. Người dân trong nước, xin đừng trông chờ hải
ngoại. Người dân trong nước xin đừng mong Mỹ, Nhựt, hay Philippines, hay
Nga hay ai đó. Làm được hay không, dám làm không, đó là tùy lòng dạ các
bạn trong nước đó thôi!
Với chúng ta ngày nay ở hải ngoại, quê
hương là “nhớ nước”. Nhớ nước qua hình ảnh xưa, nhớ nước qua kỷ niệm,
nhớ nước qua quá khứ : Sàigòn với con đường Duy Tân cây dài bóng mát,
Sàigòn với mùa gió và những cánh trái dầu rơi xoay theo gió, Sàigòn tình
tứ khi ngồi trú mưa chờ em với ly cà phê nhỏ giọt và điếu thuốc Capstan
thơm tho… và nhiều nữa. Với chúng ta ngày nay ở hải ngoại quê hương là
“thương nhà”. Thương nhà là thương những ngày thanh bình tuổi ấu thơ,
thời học trò, thời “ô môi” ăn vàng răng, …thời ăn chùm ruột chấm mắm
ruốc. Thương nhà là thương cả những ngày “đổ mồ hôi nơi quân trường”,
hay thương cả những ngày hành quân truy địch, và thương cả những ngày
chiến đấu sống còn quần thảo với Việt Cộng, thương nhà cũng là thương cả
những ngày dưởng thương hay nghỉ phép, cùng em dạo phố…
Chúng ta
ngày nay, ở hải ngoại, đấu tranh đòi hỏi tự do, nhơn quyền cho người
dân trong nước, đấu tranh đòi hỏi dân chủ, dân quyền phải được trả lại
cho người dân trong nước. Chúng ta không chấp nhận Việt Cộng cầm quyền,
vì có phải vì họ cầm quyền láo, làm hư hỏng cả một nước, một quốc gia?
Hay là chúng ta không được nhìn thấy những cái gì chúng ta mơ thay đổi
hoặc chúng ta thấy quá nhiều thay đổi nhưng không giống định nghĩa của
chúng ta ? Có lẽ cả hai. Và chúng ta sốt ruột, vì sao người dân trong
nước, những người chúng ta mơ giống chúng ta cúi đầu chấp nhận, và giòng
đời cứ thế mà trôi, và chẳng mấy chốc 43 năm đã trôi qua. Với tuổi
của chúng tôi 30 năm (1945-1975) "tuy ngắn mà dài", với những
đầy ắp kỹ niệm vui buồn vì may mắn được sống trong thể chế
tự do, dân chủ và nhân quyền của VIỆT NAM CỘNG HÒA. Nhưng đã
phải trải qua gần 44 năm, bị chụp cái gông cùm CỘNG SẢN lên cổ
trên 19 triệu dân VNCH, "tuy dài mà ngắn" vì chúng ta cảm nhận
như mới ngày nào. Vết thương vẫn hoài rĩ máu...cơn nhói đau tim
không bao giờ dứt...
Và chúng tôi mong, và chúng tôi mơ,
chúng tôi thèm có một Việt Nam mới với một cơ chế Nhà nước do những công
dân trách nhiệm tạo thành. Những công dân có chủ quyền thật sự, quyền
đóng góp vào việc quản trị đất nước. Quyền được dự và góp phần đóng góp
và quyền được gặt hái và hưởng thụ những thành quả thích đáng. Những
công dân được nhận thức nắm rõ vai trò công dân của mình: được nhận định
đúng và thực thi đúng vai trò mình, khi được dân bầu làm đại diện dân
trong vai trò lãnh đạo, cũng như khi chỉ làm người dân bình thường trong
vai trò công dân tuân thủ, chấp hành hay đóng góp.
3/ Công Dân Phải cầm quyền!
Này Công dân ơi ! Đứng lên đáp lời sông núi!
Ngày mai, chúng ta không nói nhân dân làm chủ, đất nước là của nhân dân nữa.
Chúng ta phải nói Công dân làm chủ, đất nước của Công dân.
Quan niệm đầu tiên, là quan niêm “người công dân”. Người Pháp dùng từ
citoyen, người Anh-Mỹ dùng từ citizen. Cũng như các từ ngữ có ý niệm tổ
chức xã hội, và chánh trị, những ý niệm ấy đều có gốc La Hy (La mã và Hy
lạp). Citoyen hay citizen đều đến từ Cité hay Citi = thành phố. Khi
dịch sang việt ngữ là công dân, chúng ta đã “đi tắt”, và chúng ta càng
“đi tắt” khi chúng ta áp dụng cho cả một quốc gia. Và từ công dân ngày
nay chẳng những được áp dụng tùy trường hợp, tùy quốc gia cho quốc tịch,
-nationalité mà còn được hiểu là quốc dân nữa ! Hai quan niệm, nói
đúng hơn hai trường phái thường dùng để cấp quốc tịch hoặc dựa theo
thuyết thổ nhưỡng – nơi sanh quán – là jus soli - droit du sol - quốc
thổ hoặc đựa theo thuyết huyết thống – do cha hoặc mẹ truyền cho – jus
sanguinis - droit du sang - huyết tộc. Hai thuyết nầy dựa theo:
-
Thuyết tổ chức thuần túy chánh trị, ca tụng dân tộc huyết thống, ngôn
ngữ văn hóa ( jus sanguinis), tất cả quốc dân phải cùng một huyết thống,
một ngôn ngữ.
- Dựa trên sức mạnh sản xuất kinh tế, sức mạnh
kinh tế sản xuất một quốc gia, do người sản xuất, người ấy có thể là
người di dân, chỉ cần người ấy là người có sinh hoạt kinh tế sản xuất và
đóng thuế, tức là có tham dự vào tổ chức kinh tế sản xuất, nghĩa là xã
hội, nghĩa là chánh trị, tất cả đếu sinh hoạt trong đất nước của một
quốc gia (jus soli, droit du sol !).
Quan niệm định nghĩa công
dân ngày nay của thế giới là một quan niệm trung dung dùng cả hai
thuyết, tùy lúc và tùy hoàn cảnh, thêm bớt nặng nhẹ để xử dụng cả
hai. Cũng cố chánh trị, dùng chủ thuyết tự hào dân tộc, huyết thống,
ngôn ngữ để chiếm đất dành dân, dùng thuyết huyết thống (jus sanguinis).
Còn cũng cố phát triển kinh tế cần tay nghề thợ thuyền sản xuất, dân số
đông làm giàu xứ sở dùng thuyết thồ nhưỡng (jus soli).
Công
dân-quốc dân, huyết thống và ngôn ngữ là những quan niệm chánh trị có
thể dùng làm vũ khí chiến tranh. Thí dụ Anschluss ngày 12 tháng 03
năm1938 nước Áo bởi quân Đức Nazi, vì người Áo dùng Đức ngữ; xâm chiếm
Tiệp Khắc bởi quân Đức Nazi ngày 15 tháng 03 năm 1939, để cứu người Tiệp
Đức ngữ; và thời nay, Nga chiếm Crimée, và sửa soạn chiếm Ukraine để
cứu người Ukraine Nga ngữ. Và ngày mai, Trung Cộng sẽ xâm chiếm Việt Nam
để cứu người Việt Hán ngữ!
Và tất cả đều nhân danh lòng YÊU NƯỚC để xâm chiếm nước nhỏ, theo luật của kẻ mạnh.
Phần kết
Công dân tạo đất nước, công dân chủ đất nước. Công dân khi lãnh đạo đất
nước, công dân khi tuân thủ, chấp hành, đóng góp. Tất cả với một lòng
thật sự ái quốc, thật sự yêu nước.
- Yêu nước là biết nhớ ơn đất
nước, yêu nước là đau lòng con quốc quốc khi thấy đất nước lâm nguy, xáo
trộn, giặc ngoài đang chiếm biển, giặc đang cướp nhà!." Toàn dân nghe
chăng, Sơn Hà nguy biến..."
- Yêu nước là thương nhà mỏi miệng
đóng góp, tranh đấu cho Nhân quyền cho Tự do, cho Dân chủ, cho Độc lập,
cho Công bằng , cho Bác ái dù phải mỏi miệng cái gia gia.
Người
Việt Nam yêu nước mau thức tỉnh dậy! Giặc ngày nay không còn ngoài biên
ải, giặc Tàu đã nằm ngay tại trong nhà.! «Nhà cửa ta nó sẽ ở, vợ ta nó
sẽ lấy»
Hãy nổi dậy, đuổi Việt Cộng, cướp chánh quyền, đuổi Tầu Cộng, cứu Việt Nam!
Hởi các người cựu đảng viên, đảng viên, quân nhân, công an, viên chức đương quyền!
Mong các anh chị em, chiến sĩ Quân đội Nhân dân, mong các anh chị em,
các chiến sĩ Hải quân Nhân dân, mong các anh chị em viên chức công an
hành chánh Nhà nước đương quyền hãy biết ơn người dân và đất nước đã
nuôi dưởng phục vụ, hãy lấy tự hào dân tộc cầm súng giữ giang sơn Việt
Nam.
Mong kẻ cầm quyền dương quyền còn tý tự trọng nào, giao trọng trách cho người công dân trách nhiệm. Hôm nay là ngày:
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín từng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
(Chinh phụ Ngâm – Đoàn Thị Điểm 1705-1748)