Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015

TỪ DÂN LÊN QUAN TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN !!!





                                     Quang cảnh trường thi cho giới sĩ phu

vinh khoa thi huong


 Từ ngàn xưa, do ảnh hưởng của Khổng Mạnh, xã hội Việt Nam rất coi trọng các nhà nho giáo. 

Phần đông những quan lại đều được tuyển chọn từ tầng lớp học thức này.

  Dưới triều Nguyễn, cứ 3 năm thì triều đình lại mở khóa thi Hương ở các tỉnh lớn, ai dự thi cũng được . 

    Thí sinh trúng tuyển thì được gọi là Cử-Nhân (người được địa phương tiến cử với triều đình). 

     Năm sau thì các Cử-Nhân vào Kinh để thi Hội và thi Ðình. Ai đậu khóa thi Hội thì được gọi là Thám Hoa, đậu khóa thi Ðình thì được gọi là Tiến-Sĩ .

     Người có tầm học uyên bác , tên họ sẽ được khắc trên bảng vàng hay bia đá, rồi lưu lại cho muôn thế hệ sau. 

     Các tân khoa này đều sẽ trở thành quan lại của triều đình nếu họ muốn. Sau     đó họ sẽ được ngồi võng lọng rồi được binh lính đưa về làng xưa để "vinh qui bái tổ", một vinh dự tối cao mà ngày xưa tất cả các học trò đều mơ ước.

     Từ ngàn xưa, đây là con đường duy nhất để đưa đến sự vinh quang nên               phong tục này đã đi sâu vào tâm não của dân Việt, mãi đến ngày hôm nay sự suy nghĩ này vẫn còn tồn tại.

Sau đây là những hình ảnh hiếm hoi ghi chép lại một phong tục ngàn năm.

(Bấm nút trên cái hình nhỏ để phóng đại nó ra, sau đó thì dùng nút "Précédente" (hay "Back") của navigateur để trở lại trang nầy)



nho-si.jpg (51455 octets)  Một nhà 
nho hay anh học trò
 thay-giao.jpg (137225 octets)
Thầy đồ dạy học trò 
(trong một gia đình giàu?)
Thay_do.jpg (96880 octets)Thầy đồ đang dạy họcThay_giao.jpg (133591 octets)

Thầy giáo làng
Leu_chong_di_thi.jpg (76852 octets)

Lều chõng đi thi
Thi_sinh_70t.jpg (76017 octets)

Thí sinh 70 tuổi
examen-1897.jpg (123188 octets)
Các thí sinh đi vào quảng trường thi Nam Ðịnh (năm 1897), họ phải tự làm lều và đặt chõng để viết bài
Canh_thi_1895.jpg (163377 octets)

Một hình vẽ năm 1895 cho thấy cảnh các thí sinh đang làm bài
giam-khao-tran-si-trac.jpg (57432 octets)
Giám khảo Trần-Sĩ-Trác (1897)
...

giam-khao.jpg (87490 octets)
Hội đồng giám khảo (1897)
giam-khao1.jpg (57093 octets)
Hội đồng giám khảo (1897)
hoi-dong-thi.jpg (75088 octets)

Hội đồng giám khảo (1897)
nghe-ket-qua1.jpg (86424 octets)
Ngày kết quả, người đứng trên cao dùng loa để xướng danh người trúng tuyển (1897)
nghe-ket-qua.jpg (71377 octets)
Sĩ-tử và thân nhân đến nghe xướng danh (1897)
bang-vang-ghi-ten.jpg (70691 octets)
Tên người trúng tuyển được khắc trên bảng vàng (1897)
thi-dau.jpg (84504 octets)
Các tân khoa được ban mũ, áo, hia (1897)
ta-le.jpg (66180 octets)
Các tân khoa đến bái tạ tại văn miếu (1897)
hoc-tro-ta-on.jpg (75970 octets)
Các tân khoa cảm tạ Tổng Ðốc Nam Ðịnh (1897)
tan-khoa-du-tiec.jpg (90532 octets)
Các tân khoa được Tổng Ðốc thay mặt nhà vua ban yến (1897)
tan-khoa-dao-pho.jpg (72731 octets)
Các tân khoa được rước đi dạo phố để cho mọi người xem (1897)
ket-qua.jpg (52654 octets)
Xướng danh những người trúng tuyển


NÉT BIẾM HỌA TRÀO PHÚNG CỦA NHÀ THƠ TẾ XƯƠNG QUA HÌNH ẢNH

SĨ TỬ - QUAN TRƯỜNG - QUAN SỨ 

Trần Tế Xương (1870 – 1907) thường được gọi là Tú Xương vì đi thi tới Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy nên chi đỗ Tú tài. Tuy nhiên, tài năng thơ ca, đặc biệt là thơ trào phúng đã đưa tên tuổi của ông lên vị trí hàng đầu trong giai đoạn văn học cuối thế k XIX, đầu thế k XX.

Vịnh khoa thi Hương là bài thơ thể hiện thái độ mỉa mai căm phẩn của Tú Xương đối với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường thi cử gian nan, lận đận của riêng ông. Có người cho rằng " Vịnh khoa thi Hương " là tiếng khóc nhưng lại có người cho đó là tiếng cười châm biếm sâu cay của Trần Tế Xương trước thời cuộc lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cả hai nhận xét trên đều đúng.

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Long cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
 
Bài thơ là bức biếm họa toàn cảnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu (1897) Vì tình hình chính trị bất ổn nên sĩ tử ở Hà Nội phải xuống thi chung với sĩ tử của trường thi Nam Định. Chính vì thế mà quang cảnh lộn xộn, trái hẳn với không khí trang nghiêm vốn có  chốn cửa Khổng sân Trình.
 
Cái lệ ba năm mở một khoa là quy định của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đặt ra đã từ lâu. Nhưng từ Nhà nước mở đầu bài thơ lại ám chĩ chính quyền bảo hộ của thực dân Pháp lúc bấy giờ với ý châm biếm, vì triều đình nhà Nguyễn chi còn là bù nhìn mà thôi.
 
Hai câu đề:
 
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
 
Câu phá đề đơn thuần mang tính chất thông báo, nhưng đến câu thừa đề thì ý 
châm biếm của tác giả đã bộc lộ qua từ " lẫn ". Mọi chuyện bát nháo, nực cười nơi trường thi cũng khởi nguồn từ sự chung đụng lẫn lộn này.
 
Hai câu thực:
 
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
 
Với kết cấu đảo ngược đưa tính từ lên vị trí đầu câu, Tú xương đã đặc tả cảnh tượng đáng buồn của một trường thi ở giai đoạn chữ Hán đang bị chữ quốc ngữ đẩy lùi.
 
Ngày xưa, sĩ tử đi thi phải mang theo lều chõng, cơm nước, tráp để đựng bút, giấy, nghiên mực… và một ống quyển để đựng quyển thi. Lọ ở đây là lọ nước uống. Mang vác lỉnh kỉnh như thế nên trông họ lôi thôi, lại chen lấn, xô đẩy nên càng giống một đám đông hỗn loạn ngoài đường ngoài chợ chứ không phải ở chốn trường thi vốn dĩ uy nghiêm.
 
Sĩ tử thảm hại đã đành, còn quan trường cũng chẳng hơn gì. Tiếng loa gọi thí sinh lần lượt nhập trường thi lẽ ra phải rõ ràng, dõng dạc nhưng vì quá ồn ào, lộn xộn nên quan xướng danh phải cố thét lên cho thật to, riết rồi thành ậm oẹ, chẳng đâu vào đâu cả nên hoá ra buồn cười .
Hai câu luận:
 
Long cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
 
Bằng bút pháp trào lộng sắc sảo, Tú Xương tiếp tục tả thực cái “chợ phiên” chữ nghĩa ấy với những chi tiết vô cùng độc đáo. Biết bao là trớ trêu, ngậm ngùi ẩn chứa trong khung cảnh ấy. Để chứng tỏ sự quan tâm của “mẫu quốc”, tên toàn quyền Pôn Đu-me (Paul Doumer) cùng vợ đã đến dự khai mạc trường thi cho thêm phần long trọng. Con mắt tinh đời và tâm trạng phẫn uất của Tú Xương đã giúp mọi người nhận ra nỗi nhục mất nước qua hai hình ảnh tương phản trong hai câu thơ đối nhau chan chát là: Cờ của triều đình phong kiến, đối với Váy của vợ tên quan thực dân Pháp. Ngậm ngùi, cay đắng biết bao nhiêu ! Du không có giọt nước mắt nào nhưng người đọc thấy rõ là nhà thơ đang cắn răng cố nuốt tiếng khóc vào trong, ông khóc vì quốc thể bị xúc phạm, khóc vì nỗi nhục nô lệ của giới trí thức nói riêng và cả dân tộc nói chung.
 
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
 
Nỗi ngậm ngùi bị dồn nén cao độ đã bật thốt thành lời cảm thán làm rung động lý trí và tình cảm người trong cuộc cũng như người ngoài cuộc.
 
Nhân tài đất Bắc là cách gọi mỉa mai của Tú xương đối với đám Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ đang chen chúc chốn trường thi nhốn nháo đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Trong đám đông ấy, hỏi có ai nghĩ tới cảnh nước nhà đang đau, đang hận; hay chỉ chúi mũi chúi tai tranh nhau cố kiếm miếng đinh chung mà quay lưng ngoảnh mặt làm ngơ ?!
 
Nhiều người có cùng một nhận xét là trong thơ Trần Tế xương, sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa tính hiện thực và tính trữ tình được thể hiện khá rõ. Có thể coi bài Vịnh khoa thi Hương này là một ví dụ tiêu biểu. Đằng sau tiếng cười châm biếm mang ý nghĩa xã hội sâu xa là tiếng khóc ngậm ngùi, nuối tiếc cho nền Hán học suy tàn và tất cả những gì từng được coi là tinh hoa của nó đã bị đẩy lùi trước làn sóng văn hoá phương Tây đang tràn vào nước ta theo bước chân của đạo quân viễn chinh xâm lược Pháp.

KÍNH LOAN 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét