Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO.


VƯỜT BIỂN, VƯỢT BIÊN, SẴN SÀNG ĐỔI SING MỆNH LẤY TỰ DO

Bài viết dưới đây chỉ tóm lược những bước hành trình tìm tự do của người Việt trong hơn 42 năm qua. Muốn có đầy đủ và chi tiết cuộc hành trình lịch sử này thì ta phải có một tổ chức gồm nhiều chuyên viên thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Dưới đây xin sơ lược hành trình tự do 42 năm của người Việt.

A. DI TẢN 1975
– Khoảng thời gian ngắn trước khi Sàigon thất thủ Quốc Hội Hoa Kỳ yêu cầu chính quyền Ford ước lượng số người Việt Nam lâm nguy và cần được di tản khi Việt Cộng chiếm miền Nam, phụ tá ngọai trưởng, Philip Habib, đưa ra con số 200.000 người Đông Dương cần được di tản. Ngày 18 tháng 4 năm 1975, TT Ford thành lập Lực Lượng Đặc Nhiệm (Task Force) gồm 18 cơ quan chính quyền, đảm trách công tác di tản, định cư cho người tỵ nạn Việt Nam tại Hoa Kỳ và các nước khác.
– Ngày 22/4, tức một ngày sau khi TT Thiệu rời VN, Thượng Viện Hoa Kỳ chấp thuận chính quyền Ford cho 150.000 người Đông Dương tạm dung (parole). Sở dĩ phải dùng quy chế tạm dung cho người tỵ nạn CS vì trước năm 1980, Hoa Kỳ chưa chính thức có quy chế tỵ nạn theo định nghĩa quốc tế.
– Vào cuối tháng Tư một số tàu chiến Mỹ đã đậu sẵn ngoài khơi biển Việt Nam để cứu trợ người di tản. Ngày 29/4, chiến dịch “Frequent Wind” di tản được 7.000 người Việt bằng trực thăng. Bốn căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên đất Mỹ đươc xử dụng để người tỵ nạn Việt Nam tạm trú trong khi chờ đợi người bảo trợ (sponsor).
– Ngay sau khi Sàigon thất thủ đã có 130.000 người Việt thoát khỏi Việt Nam, trong đó 65.000 người gồm quân nhân, công chức và nhân viên làm cho Mỹ, được quân đội Hoa Kỳ trực tiếp di tản, 65.000 người khác thoát khỏi VN do xử dụng các phương tiện quân sự của quân đội VNCH hoặc tư nhân. Để giúp người tỵ nạn Cộng Sản được chính thức định cư tại Hoa Kỳ, Tổng Thống Gerald Ford ký sắc luật Indochina Migration and Refugee Act of 1975, cho phép người Việt di tản được hưởng quy chế tỵ nạn đặc biệt. Sau đó, năm 1977, Thượng Nghị Sĩ Edward Kennedy bảo hộ dự luật bổ sung sắc luật trên, cho phép người tỵ nạn CS Đông Dương được hưởng quy chế Thường Trú Nhân (Permanent Resident Status)
– Đợt người Việt Nam di tản đầu tiên được đưa tới các căn cứ quân sự Mỹ Subic Bay tại Phi Luật Tân, đảo Wake và đảo Guam, sau đó được chuyển tới các trung tâm tạm cư tại Camp Pendleton (California); Fort Chaffee (Arkansas), Eglin Air Force Base (Florida) và Fort Indian Gap Town (Pennsylvania).
Làn sóng tỵ nạn CS ngày một dâng cao, chính phủ Hoa Kỳ chính thức yêu cầu Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ (United Nations High Commission for Refugees, UNHCR) đứng ra điều hành việc định cư cho người tỵ nạn tại Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Úc và các nước Tây phương khác. Tháng 5, 1975 , UNHCR bắt đầu thực hiện chương trình định cư trên khuôn khổ quốc tế gồm 25 quốc gia tham dự. Khoảng 11 đến 12 ngàn người tỵ nạn Việt được định cư trong đợt này.

B. THUYỀN NHÂN
– Một hai năm, sau năm 1975 làn sóng thuyền nhân, bắt đầu là một số nhỏ, đến năm 1977 thì làn sóng thuyền nhân bùng phát. Thuyền nhân, liều mạng vượt biển trên những con thuyền nan, thuyền gỗ mỏng manh đổ vào các nước Mã Lai, Thái Lan, Tân gia Ba, Nam Dương (Indonesia) , Hongkong và Phi Luật Tân. Tính đến cuối năm 1977 đã có 15.600 thuyền nhân đến được các nước trên.
– Cuối năm 1978, chính quyền Mã Lai bắt đầu xua đuổi thuyền nhân Việt Nam, khiến UNHCR phải ra quyết định là mọi thuyền nhân Việt Nam phải được coi là người tỵ nạn và được UNHCR bảo vệ. Dầu vậy chính quyền Mã Lai vẫn tiếp tục xua đuổi thuyền nhân. Thuyền nhân phải đến Thái Lan, Phi Luật Tân hoặc Hongkong. Nhưng làn sóng thuyền nhân vẫn không giảm mặc dầu họ phải đương đầu với biết bao nhiêu bất trắc: bão tố, hải tặc Thái cướp bóc, hãm hiếp, sát hại… khiến một số tổ chức và cá nhân giàu lòng nhân đạo như tàu Cap Anamur, tàu Đảo Ánh Sáng (Ile de Lumière) của Hội Y Sĩ Thế Giới (Medecins du Monde) ra khơi vớt thuyền nhân, tàu Hải quân Ý….. Tính tới cuối năm 1978, họ đã vớt được 8.674 người và 186 thuyền vượt biển. Nhưng có thể có khoảng một phần ba số người vượt biển Đông đã thiệt mạng do đắm tàu, chết vì đói khát hoặc do hải tặc hãm hại.
– Tính tới giữa năm 1979 đã có 700.000 người tỵ nạn Việt rời khỏi Việt Nam, trong đó 500.000 được định cư trên nhiều nước và 200.000 vẫn còn kẹt lại trong các trại tỵ nạn. Đây là một vấn nạn cho các nước Đông Nam Á cho phép thuyền nhân tạm dừng chân chờ được định cư ở các nước khác. Do đó cần phải có một nỗ lực quốc tế giải quyết vấn nạn to lớn này. Dư luận thế giới ngày một có cảm tình sâu đậm với thuyền nhân buộc các nước trong khối tự do hành động.
– Trong hai ngày 20 và 21 tháng 7 năm 1979, 71 nước tham dự hội nghị Geneva nhằm giải quyết vấn nạn thuyền nhân Việt Nam và 20 quốc gia bằng lòng tăng số người định cư tại quốc gia họ.

C. CHƯƠNG TRÌNH ODP
– Để chấm dứt thảm kịch của thuyền nhân trên Biển Đông, Hoa Kỳ thành lập chương trình tỵ nạn dành cho công dân Việt đang sống tại Việt Nam. Do đó chương trình ODP (Orderly Departure Program, Ra Đi Có Trật Tự) ra đời vào đầu năm 1980. Chương trình ODP giải quyết nguyện vọng tìm tự do cho người Việt trong nước theo nhiều chương trình khác nhau.
1/ Chương trình Mỹ lai (Amerasian Homecoming Act of 1988) khởi sự từ cuối năm 1987 dành cho người có bố là công dân Hoa Kỳ và mẹ Việt Nam. Khoảng 89.000 người được định cư tại Mỹ theo chương trình này.
2/ Chương trình HO (Former Re-Education Center Detainees, HO là viết tắt của Humanitarian Operation) dành cho cựu tù nhân cải tạo (từ 3 năm trở lên) và thân nhân. Nhờ vận động tích cực của các TNS John McCain, Edward Kennedy và những nỗ lực không mệt mỏi của các ông Robert Funseth (Phụ tá thứ trưởng ngoại giao) và ông Shep Lowman (Giám đốc Văn Phòng Việt-Miên-Lào) hiệp định HO giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ được ký kết ngày 30 tháng 7, 1989. Qua chương trình HO có 167.000 cựu tù nhân cải tạo và gia đình được định cư tại Hoa Kỳ. Song song với chương trình HO còn có các chương trình U-11 dành cho cựu nhân viên của chính phủ Hoa Kỳ với ít nhất 5 năm công vụ (từ 1/1/63 tới trước 30/4/75), và V-11 dành cho nhân viên của các công ty tư nhân Hoa Kỳ hoặc tổ chức Hoa Kỳ có 5 năm làm việc trong koảng thời gian từ 1/1/63 tới trước 30/4/75).
3/ ROVR (Resettlement Opportunity for Vietnamese Refugees) dành cho người tỵ nạn đến trại tỵ nạn sau thời hạn (còn kẹt tại trại tỵ nạn hay đã trở về Việt Nam). Sau ngày 14/3/1989 thuyền nhân Việt không được tự động coi là người tỵ nạn cộng sản nữa, chỉ những người qua thanh lọc được coi là người tỵ nạn mới được các nước khác nhận. Khoảng giữa năm 1990 hầu hết các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á đóng cửa.
– Mặc dầu còn hàng triệu người Việt muốn rời Việt Nam để tỵ nạn Cộng Sản nhưng không quốc gia nào kể Hoa Kỳ có thể mở cửa mãi cho làn sóng tỵ nạn Cộng Sản. Khi chấm dứt chương trình tỵ nạn thì người Việt Nam chỉ có thể định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình di dân thông thường, dành cho mọi quốc gia trên thế giới như qua bảo lãnh của thân nhân ruột thịt, đâu tư, lao động….
Chương trính ODP chấm dứt họat động kể từ ngày 30 tháng 9 năm 1994.
Tháng 7 năm 1999, Sứ Quán Hoa Kỳ tại Saigon giải quyết những tồn tại của ODP và bắt đầu đảm nhiệm việc duyệt xét các đơn xin chiếu khán (VISA) du lịch, du học và Visa di dân giống như công dân của các nước khác trên thế giới (Regular Immigration program)
Tính từ năm 1975 đến năm 2002 đã có 759.482 người Việt tỵ nạn Cộng Sản (không kể những người vào Mỹ theo diện di dân) định cư tại Hoa Kỳ.
Tính tới năm 1999 có 1,75 triệu người Việt Nam định cư ở các nước ngoài trong đó Hoa Kỳ chiếm 900.000; Canada, Úc và Pháp: 500.000, Trung quốc: 250.000, các nước khác: 100.000.

D. NGƯỜI VIỆT TẠI HOA KỲ
– Theo thống kê năm 2010 , số người Việt sinh sống trên đất Mỹ là 1.548.449, (chiếm 0,5% dân số Hoa Kỳ gồm 308.745.583) gồm 473.810 sinh tại Hoa Kỳ và 997.699 sinh ở ngoài Hoa Kỳ.
5 Tiểu bang có người Việt đông nhất:
- California: 581, 946
- Texas: 210, 000
- Washington: 66, 575
- Florida: 58, 470
- Virginia: 45, 263
4 thành phố đông người Việt nhất:
- Los Angeles: 271, 234
- San Jose: 125, 774
- Houston: 103, 525
- Dallas-Fort Worth: 71, 839

– Hành trình tìm tự do của người Việt là một hành trình đầy gian khổ, đầy bất trắc và hãi hùng. Mỗi hành trình tìm tự do là một kỳ tích, đôi khi như một phép lạ. Hàng trăm ngàn thuyền nhân bỏ thây trên Biển Đông. Cái chết mang nhiều bộ mặt khác nhau: chết vì đói khát, chết vì đắm tàu, chết vì hải tặc. Nhưng người tìm tự do bất chấp mọi hiểm nguy, đem mạng sống đánh đổi với tự do, đánh cuộc với may rủi trên những con thuyền mỏng manh vượt biển Đông. Tự Do hay Chết là tâm niệm của thuyền nhân khi họ bước xuống con thuyền ra khơi, bất chấp tù đầy, bất chấp bão tố, bất chấp hải tặc.
– Nếu may mắn đến được bờ Tự Do, thuyền nhân còn phải trải nghiệm cuộc sống khổ cực và thời gian chờ đợi đằng đẵng ở trại tỵ nạn.
– Mặc dầu được các nước định cư mở rộng vòng tay đón nhận nhưng người tỵ nạn gặp rất nhiều gian khổ trong giai đọan khởi đầu cuộc sống mới trên đất lạ quê người. Tiến trình hòa nhập vào xã hội mới không dễ dàng gì đối với đại đa số người tỵ nạn. Ai cũng phải trải qua những khó khăn do bất đồng về ngôn ngữ, về phong tục, về văn hóa. Ai cũng day dứt về tình cố hương, về những kỷ niệm của cuộc sống trên quê cũ, về nỗi xa cách người ruột thịt. Nhưng dần dần hầu hết đã hội nhập vào mạch chính của xã hội mới.
– Con cháu người Việt tỵ nạn thành công trên nhiều địa hạt: giáo dục, thương mại, chính trường, binh nghiệp…. làm người tỵ nạn cảm thấy những gian truân và hiểm nguy mà họ đã trải qua được đền bù xứng đáng.
Kỷ niệm 42 năm hành trình tìm tự do cũng là để suy nghiệm về những cái mất và cái được. Mỗi người trong chúng ta có cái mất khác nhau và cái được khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một cái mất là mất quê hương bản xứ và được cái chung cao quý là TỰ DO.
– Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt , trong diễn văn khai mạc nhiệm kỳ thứ 3 có nói:
“Chúng ta thà chết trên đôi bàn chân còn hơn sống trên hai đầu gối của mình”

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

BIẾT HỎI AI.? 😅😂🤣

 


Ta nói với lòng biết hỏi ai?
Hỏi trăng, trăng lặng, vẻ u hoài.
Hỏi hoa, hoa ngại lòng con gái,
Hỏi gió, gió cười ngại chí trai.
Hỏi bướm, bướm còn đang lả lướt.
Hỏi ong, ong đã, ngất ngây say.
Hỏi trời đất nước rừng sông biển…
Tiếng vọng bên sông mấy dặm dài…

Hói bạn gần xa có được không?
Hỏi chàng trai trẻ giữ trong lòng
Hỏi cô gái nhỏ còn e ấp,
Hỏi chị cười duyên chẳng nói năng
Hỏi đến các anh lòng trống vắng
Hỏi qua con cháu tuổi chờ trông
Hỏi con mới lớn còn chưa biết
Hỏi cháu vừa tròn tuổi mầm non.

BIẾT HỎI CÙNG AI...? 🤣😅😂🤣

Nuong Huynh Chẳng biết hỏi ai tự hỏi mình Bao giờ thoát khỏi kiếp nhân sinh Xem hoa vẫn thấy lòng tha thiết Ngắm cảnh u hoài chỉ lặng thinh ... ! (?) Đông Lợi Long Cảm ơn bạn già VL Nuong Huynh Xướng Chẳng biết hỏi ai tự hỏi mình Bao giờ thoát khỏi kiếp nhân sinh Xem hoa vẫn thấy lòng tha thiết Ngắm cảnh u hoài chỉ lặng thinh ..! (?) HN Họa Chẳng ai để hỏi.! Trả lời mình. Thế sự xoay vần chuyện chúng sinh Hỏi đến loài hoa nhiều thắm thiết Nhân tình thế thái vẫn làm thinh. Bùi Thủy Thơ hay thương cảm hình ảnh vui khỏe hạnh phúc nhé thi nhân kính mến. Đông Lợi Long Cảm ơn, chúc Bùi Thủy thân vui khỏe tâm bình an. Se Nguyen

Đông Lợi Long




Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

THÓI QUEN TỐT VÀ XẤU CHO ĐƯỜNG RUỘT CŨNG NHƯ SỨC KHỎE TỔNG QUÁT

 


Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo một số thói quen không tốt mà nếu tránh được, bạn sẽ không gặp các vấn đề về sức khỏe tổng thể, cũng như ngăn ngừa được bệnh liên quan đến đường ruột.

Bỏ bữa

Bỏ bữa, ăn không đúng giờ giấc hoặc nhịn ăn quá lâu dẫn đến khó chịu ở dạ dày, khó tiêu, đầy hơi, thậm chí trào ngược acid hoặc kích ứng niêm mạc ruột.

Bỏ bữa sáng cũng rất nguy hiểm. Sau một đêm nhịn ăn, cơ thể chúng ta cần nhiên liệu để bắt đầu quá trình trao đổi chất. Việc không ăn bữa sáng khiến hệ tiêu hóa mất cân bằng và dẫn đến ăn quá nhiều vào cuối ngày, gây căng thẳng cho dạ dày.

Thiếu ngủ

Thức dậy muộn có vẻ vô hại, nhưng thiếu ngủ làm gián đoạn quá trình sản xuất hóc-môn tiêu hóa, ảnh hưởng đến sự cân bằng của vi khuẩn trong ruột. Ngủ kém cũng liên quan đến việc tăng căng thẳng, làm trầm trọng thêm các vấn đề về dạ dày bằng cách ảnh hưởng đến cách ruột xử lý thức ăn.

Ăn thiếu chất xơ

Chất xơ là trụ cột của một đường ruột khỏe mạnh, nhưng nhiều người không hấp thụ đủ chất xơ từ trái cây và rau quả. Chất xơ giúp di chuyển thức ăn qua đường tiêu hóa, hỗ trợ vi khuẩn đường ruột và ngăn ngừa các vấn đề như táo bón và đầy hơi.

Căng thẳng

Căng thẳng mãn tính dẫn đến rối loạn lớn cho sức khỏe đường ruột, ảnh hưởng đến mọi thứ từ tốc độ tiêu hóa đến quá trình hấp thụ chất dinh dưỡng.

Khi bị căng thẳng, cơ thể chúng ta sản xuất nhiều cortisol hơn, một loại hóc-môn loại bỏ vi khuẩn đường ruột và dẫn đến các triệu chứng như đau bụng, đầy hơi và thậm chí Hội chứng ruột kích thích IBS.

(IBSIrritable Bowel Syndrome là một rối loạn tiêu hóa mạn tính gây ra các triệu chứng như đau bụng, đầy hơi, trướng bụng và thay đổi thói quen đại tiện (tiêu chảy hoặc táo bón). IBS không gây tổn thương thực tế cho ruột nhưng ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng cuộc sống, và thường liên quan đến căng thẳng, chế độ ăn uống và hệ vi sinh đường ruột).

Ăn nhiều thực phẩm có đường hoặc chế biến sẵn

Thực phẩm có đường và chế biến sẵn thì tiện lợi, nhưng lại gây ra sự hỗn loạn trong ruột. Những thực phẩm này thường ít chất xơ và nhiều chất phụ gia, chất bảo quản và đường nhân tạo, làm mất cân bằng tự nhiên của ruột và dẫn đến tình trạng viêm.

Uống nước không đủ

Nước hỗ trợ phân hủy thức ăn, hấp thụ chất dinh dưỡng hiệu quả hơn và ngăn ngừa táo bón. Uống đủ nước mỗi ngày giúp thức ăn di chuyển trơn tru qua đường tiêu hóa, kiểm soát đầy hơi và các chứng khó chịu tiêu hóa khác.

Đi bộ sau bữa tối, một trong những thói quen tốt

Đi bộ sau bữa tối từ lâu trở thành thói quen của nhiều người vì giúp tiêu hóa, với tuyên bố rằng việc này hỗ trợ kiểm soát lượng đường trong máu, cũng như giúp ngủ ngon hơn.

Hỗ trợ tiêu hóa và giảm lượng đường trong máu sau bữa ăn

Một trong những lợi ích của việc đi bộ sau bữa ăn, đặc biệt bữa tối, nằm ở tác dụng của việc này đối với lượng đường trong máu. Theo một nghiên cứu năm 2023 được công bố trên tạp chí Sports Medicine, đi lại ngay sau khi ăn làm giảm đáng kể lượng đường trong máu sau bữa ăn – tình trạng tăng đường huyết sau khi ăn.

Điều này đặc biệt có lợi cho những người bị kháng insulin hoặc tiểu đường loại 2, vì việc điều chỉnh những đợt tăng đột biến này giúp kiểm soát lượng đường trong máu hiệu quả hơn. Nghiên cứu cho thấy rằng đi bộ ngay sau bữa ăn có lợi hơn đợi lâu hoặc đi bộ trước khi ăn.

Một phân tích tổng hợp được thực hiện vào năm 2022 cũng đưa ra những phát hiện tương tự. Nghiên cứu cho thấy đi lại từ tốn ngay sau bữa ăn hỗ trợ kiểm soát lượng đường trong máu và phản ứng insulin, có khả năng làm giảm nguy cơ liên quan đến bệnh tim và tiểu đường loại 2.

Hỗ trợ sức khỏe tim mạch thông qua các bài tập nhẹ nhàng

Đi bộ sau bữa tối không chỉ giúp kiểm soát lượng glucose, mà còn có giá trị đối với sức khỏe tim mạch nói chung.

Phân tích tổng hợp năm 2022 cho thấy đi lại ngay sau bữa ăn có lợi ích bảo vệ tim. Mặc dù việc nghỉ ngơi khi đứng có tác dụng giảm lượng glucose so với việc ngồi lâu, nhưng đi bộ nhẹ nhàng có tác động rõ rệt hơn. Đi lại nhẹ nhàng cũng được chứng minh là làm giảm lượng insulin hiệu quả hơn so với khi đứng.

Mức độ hoạt động nhẹ nhàng này giúp tim hoạt động mà không cần gắng sức quá mức, khiến nó trở thành cách an toàn, dễ tiếp cận để mọi người ở mọi lứa tuổi cải thiện lưu thông máu. Theo thời gian, những cải thiện nhỏ này về lượng đường trong máu và insulin góp phần làm giảm nguy cơ tim mạch, nhấn mạnh lợi ích của thói quen đơn giản này.

Tăng cường trao đổi chất và ngăn ngừa tăng cân

Đối với những người muốn điều chỉnh cân nặng, đi bộ sau bữa tối sẽ giúp ích. Sau bữa ăn, cơ thể tiêu hóa thức ăn và hoạt động thể chất nhẹ nhàng như đi bộ tăng cường quá trình này bằng cách kích thích nhẹ nhàng quá trình trao đổi chất. Mặc dù chỉ đi lại không phải giải pháp giảm cân, nhưng việc vận động thường xuyên làm tăng đáng kể lượng calo đưa vào cơ thể theo thời gian.

Đi bộ cũng làm giảm cảm giác đầy hơi xảy ra sau những bữa tối thịnh soạn, giúp ta dễ dàng tuân thủ thói quen ăn uống cân bằng hơn. Đối với những người thường ít vận động, ngay cả những lần đi lại trong thời gian ngắn cũng tạo ra sự khác biệt bằng cách ngăn ngừa tình trạng chậm chuyển hóa và thúc đẩy quá trình trao đổi chất nhẹ nhàng sau khi ăn.

ĐỪNG TƯỞNG.

 


Đừng tưởng cứ núi là cao..
Cứ sông là chảy,
cứ ao là tù,

Đừng tưởng cứ dưới là ngu..
Cứ trên là sáng,
cứ tu là hiền,

Đừng tưởng cứ đẹp là tiên..
Cứ nhiều là được,
cứ tiền là xong,

Đừng tưởng không nói là câm..
Không nghe là điếc,
không trông là mù.

Đừng tưởng cứ trọc là sư..
Cứ vâng là chịu,
cứ ừ là ngoan

Đừng tưởng có của đã sang..
Cứ im lặng tưởng
là vàng nguyên cây,

Đừng tưởng cứ uống là say..
Cứ chân là bước,
cứ tay là sờ,

Đừng tưởng cứ đợi là chờ..
Cứ âm là nhạc,
cứ thơ là vần,

Đừng tưởng cứ mới là tân..
Cứ hứa là chắc,
cứ ân là tình,

Đừng tưởng cứ thấp là khinh..
Cứ chùa là tĩnh,
cứ đình là to,

Đừng tưởng cứ quyết là nên..
Cứ mạnh là thắng,
cứ mềm là thua,

Đừng tưởng cứ lớn là khôn…
Cứ bé là dại,
cứ hôn… là chồng,

Đừng tưởng giàu hết cô đơn..
Cao sang hết ốm,
tham gian hết nghèo,

Đừng tưởng cứ gió là mưa..
Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè,

Đừng tưởng cứ hạ là ve..
Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn

Đừng tưởng thu lá sẽ tuôn..
Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.

Đừng tưởng cứ thích là yêu..
Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay,

Đừng tưởng vua là anh minh..
Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.

Đừng tưởng đời mãi êm đềm..
Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.

Đừng tưởng cười nói ân cần..
Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.

Đừng tưởng trong lưỡi có đường..
Nói lời ngon ngọt mười phương chết người,

Đừng tưởng cứ chọc là cười..
Nhiều khi nói móc biết cười làm sao,

Đừng tưởng khó nhọc gian lao..
Vượt qua thử thách tự hào lắm thay,

Đừng tưởng cứ giỏi là hay..
Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần,

Đừng tưởng nắng gió êm đềm..
Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng,

Đừng tưởng góp sức là chung..
Chỉ là lợi dụng lòng tin của người,

Đừng tưởng cứ tiến là lên..
Cứ lui là xuống, cứ yên là nằm,

Đừng tưởng rằm sẽ có trăng..
Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu,

Đừng tưởng cứ khóc là sầu..
Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng,

Đừng tưởng cứ nghèo là hèn..
Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.

Đừng tưởng quan chức là rồng,

Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.

Đời người lúc thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.

Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.

Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.

Ai ơi nhớ lấy đừng quên…!

Bùi Giáng

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

HÒA THƯỢNG THÍCH AN CHÁNH (1922-1991)

 


Hôm nay ngày 23 tháng 8 năm Giáp thìn (25-9-2024).

Nhân ngày lễ húy nhựt Hòa Thượng tôn sư Thích An Chánh lần thứ 33, chúng tôi xin được ghi lại sự nghiệp truyền thừa vẻ vang của chư vị Hòa thượng tiền bối ở vùng đất cao nguyên Trung phần. Với chúng tôi, đây là niềm tự hào của lớp con cháu tổ sư đã góp phần làm tươi sáng rạng rỡ đạo pháp của thiền phái ở vùng đất phố núi cao nguyên...
Hòa thượng Thích An Chánh, thế danh Trần Văn Sách, sinh năm 1922, tại thôn Cổ Phú, xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Vốn sinh trưởng trong gia đình Nho giáo, do mẹ mất sớm, nên khi lên 6 tuổi được gia đình cho vào chùa theo các thầy học chữ Nho từ rất sớm, vì thế khi lớn lên ngài được khen là uyên thâm nho học, đặc biệt hơn là tài năng viết chữ Hán, với đường nét sắc sảo khó có người sánh kịp.
Năm 1934, lúc lên 12 tuổi, được thế độ xuất gia học Phật với bổn sư là Hòa thượng Thích Trí Hưng tại chùa Sắc tứ Từ Lâm, xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, được Hòa thượng đặt pháp danh là Như Vinh. Là người đệ tử đầu tiên của Hòa thượng bổn sư có tư chất thông minh, cộng với sự hiếu học, chuyên cần nổi bật hơn các huynh đệ cùng thời, đặc biệt với vốn kiến thức Hán học nên khi tiếp xúc với kinh điển rất dễ dàng, sớm nổi danh là một tu sĩ tài giỏi xuất chúng.
Sau 7 năm học đạo, năm 1941, khi vừa tròn 20 tuổi, được thọ Tam đàn Cụ túc giới tại giới đàn chùa Sắc tứ Thạch Sơn, xã Nghĩa Phú, tỉnh Quảng Ngãi do Hòa thượng Diệu Nguyên làm Đàn đầu Hòa thượng. Sau khi thọ giới, thầy được bổn sư phú pháp tự là Giải Lộc, pháp hiệu An Chánh, nối pháp đời thứ 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 dòng thiền Chúc Thánh.
Năm 1938, Hội An Nam Phật Học tại Quảng Ngãi do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và bác sĩ Hoàng Mộng Lương chủ trương thành lập. Hội do bác sĩ Hoàng Mộng Lương làm Hội trưởng, ông Đại học sĩ triều Nguyễn là Lâm Tô Bích, pháp danh Thị Độc, làm Phó Hội trưởng, Giáo sư Phan Tiên làm Thư ký và hội “Cung thỉnh Đại lão Hòa thượng Hoằng Thạc, Tăng cang Diệu Quang và Hòa thượng Trí Hưng làm Chứng minh Đạo sư kiêm cố vấn đạo hạnh cho hội”, cũng trong bối cảnh này thầy có dịp theo làm thị giả cho Hòa thượng Hoằng Thạc và Hòa thượng bổn sư, nên có nhiều cơ hội tiếp xúc, học tập với nhiều vị danh tăng đương thời, trong lĩnh vực chấn hưng Phật giáo.
Năm 1945, theo sử liệu trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận thì “Từ Nam ra Bắc, Phật tử đủ các giới tham dự vào cách mạng. Các đoàn thể Tăng già Cứu quốc và Phật giáo Cứu quốc được thành lập khắp nơi”. Cùng năm này, báo Đuốc Tuệ của Việt minh ở miền Bắc lên tiếng kêu gọi Tăng ni các nơi mau mau lập đoàn Tăng già Cứu quốc, theo mục đích ấy mà tham gia vào công cuộc cách mạng hiện thời. Đặc biệt, bìa sau báo Đuốc Tuệ số 257-258 ra ngày 15.8.1945 đăng những khẩu hiệu và những lời kêu gọi tham gia kháng chiến:
“Ủng hộ chính quyền Nhân dân
Mau mau gia nhập Đội quân Giải phóng Việt Nam
Chống mọi cuộc xâm lăng
Việt Nam độc lập hoàn toàn
Hãy sửa soạn nghênh tiếp Chính phủ Lâm thời
và Đoàn quân Giải phóng sắp về tới nơi
Hãy đọc Cứu Quốc, cơ quan của Mặt trận Việt Minh”.
Đó là lời kêu gọi vì lòng yêu nước, vì tinh thần độc lập tự chủ của một dân tộc, chứ không phải xuất phát từ một phe phái chính trị nào, nên được Tăng ni và Phật tử nhiệt tình hưởng ứng. Vì thế, thầy cũng không ngoại lệ, từ khi tiếp xúc với những lời kêu gọi trên, ngài cũng tích cực tham gia trong Hội Phật giáo Cứu quốc Trung bộ và Thừa Thiên do Hòa thượng Trí Thủ và một số vị khác thành lập, thể hiện được tinh thần của một công dân yêu nước.
Tuy nhiên, con đường cách mạng không đơn giản như trên sách vở, mà “là một con đường đầy chông gai hiểm trở, không phải là những chông gai hiểm trở vật chất mà là những xót xa và rách nát của tâm hồn gây nên do áp lực phải lựa chọn. Dấn thân vào cách mạng bằng một tâm hồn trong trắng, chỉ trong vòng hai ba năm là tâm hồn ấy có thể rách nát, bầm tím và có khi chai sạn. Sự sai lầm là nguyên do gây ra thảm trạng này, hiện tượng cạnh tranh của các phe phái chính trị và tính cách bất khoan dung của các ý thức hệ”. Chính vì còn nhiều vấn đề không thể giải quyết được đó mà thầy đã buông bỏ tất cả, nhanh chóng trở lại chốn thiền môn, tiếp tục công cuộc tu hành phụng sự cho đạo pháp.

HÀNH ĐAO
Năm 1947, thầy tiếp tục theo Hòa thượng Trí Thủ tham gia trong phong trào phục hồi lại các cơ sở Phật giáo đã băng hoại của Hội An Nam Phật học tại Huế. Cuối năm 1947, thầy tham gia trong công tác chuẩn bị để tái khai giảng lớp Phật học tại Phật học đường Trung Việt (chùa Báo Quốc). Tại đây, thầy đã trải qua những ngày tháng chuyên tâm học tập giáo lý, nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm từ những vị tiền bối, để sau đó vào miền Nam hoạt động tại Phật học đường Lưỡng Xuyên (tỉnh Trà Vinh) trong 2 năm.
Nâm 1950, ngài trở lại Huế, ở tại chùa Báo Quốc. Cũng trong năm này, cụ Võ Chuẩn, nguyên là Thượng thư của triều đình nhà Nguyễn, vốn là người chủ trương thành lập và đứng ra thiết kế xây dựng chùa Bác Ái, trong thời gian công tác làm chức Quản đạo tỉnh Kon Tum từ năm 1933 đến 1938, sau khi xây xong thì được triều Nguyễn sắc phong “Sắc tứ Bác Ái Tự”. Trong 5 năm đầu tiên khi thành lập, ngôi chùa được Hòa thượng Hoằng Thông ở Bình Định cử thầy Từ Vân lên trông coi chùa trong giai đoạn này. Vì thế, thầy Từ Vân được coi như là vị đệ nhất trụ trì của chùa này vậy. Thầy Từ Vân, pháp danh Thị Niệm, pháp tự Từ Ân, nối dòng Lâm Tế đời thứ 42, thế hệ thứ 9 pháp phái Chúc Thánh.
Năm 1939, cụ Võ Chuẩn đã đại diện cho lời thỉnh cầu của bổn đạo, Phật tử tại tỉnh Kon Tum về Huế trình lên Hội Sơn Môn Tăng Già Trung Việt, lúc ấy do ngài Hòa thượng Trí Hưng làm Hội trưởng, với mục đích cung thỉnh một vị thầy có đủ tài đức để lên trụ trì chùa Bác Ái ở Kon Tum. Hòa thượng An Chánh là người được bổn sư tuyển chọn.
Đây là ngôi chùa được xây dựng sớm nhất trên vùng đất mới này, nơi mà người đồng bào thiểu số chưa từng biết thế nào là chùa, là Phật giáo, theo miêu tả trong sách “Người Bana ở Kon Tum” thì người lương (không có đạo Công giáo) mới xây dựng năm 1933 “một ngôi chùa kiểu cách rất ngộ nghĩnh gọi là chùa Bác Ái, có lẽ là ngôi chùa Annam đầu tiên ở phía Tây của dãy Trường Sơn”.
Tuy là người có hoài bão và nhiệt huyết trong phong trào chấn hưng Phật giáo, nhưng vì tinh thần phụng sự của một Sứ giả Như Lai, vì muốn đem ánh sáng của đức Phật đến với đồng bào Phật tử vùng cao nguyên Kontum, một tỉnh miền núi phía Tây dãy Trường Sơn với 80% dân số là người đồng bào thiểu số, mà thầy đành bỏ lại tất cả những công việc đang phụng sự tại Huế, chia tay chư huynh đệ, một mình đến nơi tận cùng biên giới phía Tây của đất nước để làm nhiệm vụ hoằng truyền chánh pháp của Như Lai.
Ngày 17/2/1950, thầy chính thức trụ trì chùa Bác Ái. Vì là vị Tăng duy nhất hoạt động dấn thân phụng sự trên mảnh đất xa xôi này, nên trách nhiệm vô cùng lớn lao, vừa làm Tăng trưởng tỉnh hội Kontum, kiêm nhiệm Trưởng Ban Hoằng pháp. Sự xuất hiện cấp thiết của thầy, cũng giống như sự cấp bách trong việc thành lập ngôi chùa vậy, vừa mang tính tôn giáo, nhân đạo, vừa thể hiện được sự khát khao của người dân nơi đây, “những người lương giáo (không công giáo) cũng xin phép lập một ngôi chùa, thờ Phật và quy y các vong linh những người chết mà thân thuộc không thể đem thi hài về xứ được, chùa ấy tên là chùa Linh Sơn. Công việc chia thành nhiều năm mới thành, thế rồi tháng 10 năm 1933 đã hoàn tất.
Trong khoảng thời gian 41 năm trụ trì, từ năm 1950 đến 1991, thầy đã quy y cho hàng vạn tín đồ Phật tử, thành lập tổ chức Gia đình Phật tử Bác Ái, nhiều lần trùng tu lại ngôi chùa bị hư hoại do nhiều cuộc chiến tranh tàn phá.
Năm 1952, Thầy trùng tu lại nhà Tổ, 1957 tu bổ nhà Đông. Trong đó nặng nhất là cuộc chiến năm 1968, vì chùa là nơi các chiến binh CS chiếm ần mình để hoạt động, nên chính quyền đương thời đã nhiều lần cho tấn công vào chùa, đã làm sập cổng tam quan, bể đại hồng chung, chánh điện hư hỏng nặng, và một số công trình phụ khác. Năm1968 là đại trùng tu, ngài đã đi khắp nơi vận động kinh phí, trùng tu lại chánh điện, thay lại tường đất bằng xi măng, cột kèo bằng gỗ, lợp lại ngói phần thượng điện…, riêng cổng tam quan xây mới lại theo kiến trúc cổng các chùa Bình Định, không theo kiểu cổ lầu như trước. Trong thời gian này, ngài làm lễ đúc đại hồng chung, đào giếng. Năm 1973, sửa lại lầu chuông, lầu trống, thay lại toàn bộ bằng gỗ.
Ngoài công việc xây dựng Tam bảo, thầy còn mở những lớp dạy học, những khóa thực tập cắm trại cho học sinh tiểu học tại khuôn viên chùa Bác Ái, để đưa các em thiếu nhi sớm được tiếp xúc với đạo Phật, tạo nên những ký ức đẹp trong tuổi thơ hồn nhiên của các cháu thiếu nhi và những kỷ niệm này khó có thể phai nhạt trong ký ức, đó cũng là một cách để đem đạo Phật đến với mọi người.
Đặc biệt, thầy còn mua nhiều ruộng đất để làm kinh tế nuôi dưỡng tăng chúng, mua đất xây dựng mới 3 ngôi chùa tại Kon Tum làm nơi tu học cho chư tăng và Phật tử tại địa phương, như chùa Hoa Nghiêm ở xã Phương Hòa (1959), chùa Pháp Hoa ở xã Hòa Bình (1967), chùa Phật Quang ở xã Phương Quý (1967).
Với học vấn uyên thâm, giới luật tinh chuyên, thầy được thỉnh mời tham gia trong thành phần ban chức sự giới đàn, làm Đệ nhị tôn chứng tại đại giới đàn tổ chức tại chùa Nghĩa Phương, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, năm 1957. Trong giới đàn này, Hòa thượng Huệ Pháp khai sơn chùa Minh Tịnh, tỉnh Bình Định, làm Đàn đầu hòa thượng.
Từ đó, vì mến mộ tài đức của của Hòa thượng An Chánh, Hòa thượng Huệ Pháp đã nhiều năm liền mời thầy về chùa Minh Tịnh làm giáo thọ sư giảng dạy nhiều lớp giáo lý cho chư Tăng ni và Phật tử từ năm 1957.
Năm 1969, thầy được tấn phong giáo phẩm Hòa thượng tại chùa Phước Long, Sài Gòn (nay thuộc phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh).
Tuy Phật sự đa đoan, nhưng thầy cũng dành thời gian tham gia dịch thuật kinh sách, viết bài nghiên cứu Phật học, những tác phẩm còn lại của thầy như: kinh Bác Đại Nhân Giác giảng giải, Cực lạc ngũ thanh, Lòng thương thể hiện, Ngày đại lễ Phật đản, Mừng Phật đản sanh, Kỷ niệm mừng Phật Thích Ca thành đạo, Tứ Niệm xứ quán, Lược sử đức Phật A Di Đà…, ngoài ra còn có những tác phẩm được soạn thảo bằng chữ Hán, do chính tay thầy viết với nét chữ vô cùng đặc biệt, ngay cả người Hoa cũng khó có thể viết như ngài, như: Sa Di Luật Giải, Lăng Nghiêm Thần Chú, Kim Kang Bát Nhã Ba La Mật kinh, Thọ Mạng Đà La Ni kinh, Hồng Danh kinh, Vu Lan kinh, Nhị Thời Khóa Tụng Cổ Đại Bổn…
Ngày 23 tháng 8 năm Tân Mùi (30-9-1991), sau bao năm phụng sự Phật pháp, sức khoẻ không còn sung mãn như tuổi đôi mươi, trong một cơn bạo bịnh, thầy thâu thần thị tịch tại chùa Bác Ái trong niềm tiếc thương vô hạn của đồng bào Phật tử. Thầy là một tấm gương sáng về tinh thần dấn thân phụng sự đạo pháp, bên cạnh đó còn là một người dân có tấm lòng yới đất nước nồng nàn. Ngài hưởng thọ 69 tuổi (1922-1991); 50 hạ lạp nhục thân (1941-1991), được nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa.
Trong di chúc thầy để lại lời nhắn nhủ dành cho bổn đạo Phật tử rằng ngoài việc phải tu tập thân khẩu ý tự hoàn thiện bản thân, thì phải ghi nhớ chùa Bác Ái là một di tích của Phật giáo Cổ Truyền tỉnh Kontum, chùa đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển đạo Pháp tại tỉnh nhà, cho nên Phật tử phải có trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn ngôi chùa này.

Đệ tử của thầy, kế vị trụ trì đời thứ 3 chùa Bác Ái là Hòa thượng Thích Chánh Quang, pháp danh Thị Chương, pháp Tâm Huệ, nối pháp dòng Lâm Tế đời thứ 42, thế hệ thứ 9 dòng Chúc Thánh. Hòa thượng là thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, sinh năm 1945, hiện đã 75 tuổi.

Trụ trì đời thứ 4 là Đại đức Thích Đồng Trí, nối pháp dòng Chúc Thánh đời thứ 10, thầy là đệ tử của Hòa thượng Chánh Quang, cũng là người nhận thừa kế di chúc kế thừa chùa Bác Ái vào năm 2018....


Nguyễn Kim Sâm NGÀI MẤT 23/ 8/ÂL ( 1991) Thúy Tiễn Lê Ngài đã mất 33 năm 1991 - 2024 Bài viết ý nghĩa, có Tâm, có Tầm, cảm ơn tác giả

Đông Lợi Long Cảm ơn Thúy Tiễn Lê, cầu mong vạn sự hạnh thông trong cuộc sống. Những "nỗi niềm" riêng, thời quá khứ.! Tưởng chừng phai nhạt với thời gian Giờ tuổi về già nay nhớ lại... Tấm lòng, Trí, thức, với tâm can. Tâm tư suy nghĩ trong lòng ấy.! Tâm khảm ghi sâu những bóng hình Tâm tình thương xót riêng tư đó. Tâm can cảm mến tận đáy lòng Thúy Tiễn Lê

Đông Lợi Long