Thứ Năm, 5 tháng 1, 2017

THEO NHO HỌC LỨA TUỔI NÀO MỚI TỰ LẬP VÀ TẠO NÊN SỰ NGHIỆP ?


I. Kinh nghiệm thành đạt trong cuộc đời

“Tam thập nhi lập” nghĩa là người ta đến 30 tuổi mới có thể tự lập, dựng nên sự nghiệp cho mình.Theo giáo lý Khổng Học, điều này thường để áp dụng cho đàn ông và con trai.Tuy nhiên, cái tuổi 30 dù là trai hay gái cũng là tuổi có thể tự lập và có sự nghiệp vững vàng nếu được chuẩn bị từ nhỏ.
Đức KhổngTử có ý nói rằng con người tới một lứa tuổi nào...mới có khả năng nhận thức và thực hành những điều mà người chưa đạt đến lứa tuổi đó thì chưa nhận-thức và thực-hành được. Để giúp các bạn trẻ hiểu rõ trọn-vẹn ý-nghĩa lời phát-biểu của Khổng Tử trên đây, chúng tôi xin bàn về từng phần của lời phát-biểu này. 
Căn cứ theo sự giải thích của Khổng Tử, con người đến một mức tuổi nào đó mới hiểu rõ được một số điều mà những người chưa đến tuổi đó không hiểu nổi. Chính vì thế mà Khổng Tử đã nói : 

– Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học

Ta tới mười lăm tuổi mới chuyên-chú vào việc học.Trong câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học," chúng ta thấy có mấy chữ cần phải được giải-thích để giúp các bạn trẻ hiểu cho rõ. Chữ "hữu" có nghĩa là "thêm" (thập hữu ngũ: mười thêm năm, tức là 15), chữ "chí" có nghĩa là "để hết tâm ý," và chữ "vu" có nghĩa là "đối vi" Cả câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học" có nghĩa là khi tới 15 tuổi, ta mới có thể tự-mình chuyên-tâm vào việc học. Có biết như thế, các bậc cha mẹ mới không buồn-phiền khi thấy các con mình mãi chơi đùa và không chịu chuyên tâm học-hành trước khi chúng chưa tới lứa tuổi 15. Và cũng nhờ đó, các bậc cha mẹ mới đem hết kiên-nhẫn, kỹ-năng, và nghệ-thuật để chăm-nom săn-sóc cho các con mình ngay từ khi chúng còn nhỏ (trước 15 tuổi) hầu giúp chúng thành-công trong việc học.

– Tam thập nhi lập

Ba mươi tuổi mới tự lập. Con người ta tới 30 tuổi thì sức tự-lập mới có thể chắc-chắn và vững-vàng. Thực vậy, khi đạt tới 30 tuổi, con người có thể tự-lập và gây-dựng nên sự-nghiệp cho mình với điều-kiện là họ phải có chí tự-lập cũng như được cha mẹ săn-sóc và giáo-dục chu đáo. Chí tự-lập của con người giữ vai-trò quyết-định trong việc tự-lập. Trong thực-tế đã có nhiều người tự-lập từ trước lứa tuổi 30 và cũng có người không tự-lập được ở ngoài lứa tuổi 30. Đây là trường-hợp của những người có chí tư-lập hay không. Nếu không có chí tự-lập thì dù cha mẹ có săn-sóc và giáo-dục cũng vẫn không tự-lập được. Họ là những người ỷ lại, sống ăn bám gia-đình và xã-hội.

– Tứ thập nhi bất hoặc

Bốn mươi tuổi mới thấu hiểu hết sự lý trong thiên hạ, có lòng tin, nhận định được nghi hoặc. Khi người ta tới 40 tuổi mới có thể hiểu thấu mọi sự-lý trong thiên-hạ, phân biệt được việc phải hay trái cũng như hiểu được ai là người tốt hay xấu, phân biệt được những ai là người chân-chính yêu nước thương nòi và biết được cái gì nên làm hay không. Không phải người nào ở cái tuổi 40 cũng được như vậy. Muốn đạt tới trình độ "nhi bất hoặc," con người phải được giáo-dục kỹ-lưỡng và tự mình cố công học-hỏi chuyên-cần ngay từ khi còn nhỏ. 

– Ngũ thập nhi tri thiên mệnh

 Năm mươi tuổi mới biết mệnh trời, biết sống đúng với hoàn-cảnh. Khi người ta tới 50 tuổi mới có thể thông-suốt chân- lý của tạo-hoá, tức là hiểu được mệnh của trời. Không phải bất cứ ai tới 50 tuổi là đạt được trình-độ "tri thiện-mệnh" Muốn đạt được trình độ "tri thiên-mệnh," con người cũng phải có căn-bản vững-vàng về giáo-dục, kiến-văn, và kinh-nghiệm sống.

– Lục thập nhi nhĩ thuận

Sáu mươi tuổi mới có kiến-thức và kinh-nghiệm hoàn-hảo để có thể phán-đoán ngay được mọi sự lý và nhân vật mà không thấy có điều gì chướng-ngại khi nghe được, nghe điều gì cũng thông-đạt. Khi người ta tới 60 tuổi thì mới đạt đến mức độ hoàn-hảo về mặt tri-hành, kiến-văn, và kinh-nghiệm về cuộc sống. Nhờ đó, người ta có thể nhận-xét và phán- đoán được ngay tức-khắc và chính-xác về các sự-kiện và nhân-vật trong thiên-hạ. Khi nhìn hay nghe thấy điều gì, người ta không những không cảm thấy chướng-ngại mà còn hiểu thấu ngay mọi lẽ. Không phải tự-nhiên mà ta đạt được trình-độ "nhi nhĩ thuận" Muốn đạt được trình-độ này, con người cũng phải có căn-bản giáo-dục, đạo-đức, kiến-văn, và kinh-nghiệm từng-trải về sự đời.
  
– Thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ

Bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làm những điều đúng theo ý muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn-khổ đạo-lý. Sở dục thuận theo tâm-tính, không điều gì vượt khuôn phép. Tới 70 tuổi, con người sẽ đạt đến tình- trạng rất hoàn-hảo về cách xử-sự và xử-thế. Nhờ đó mà mỗi khi người ta định nói điều gì hay làm việc gì thì tự-nhiên thể-hiện đúng với chủ tâm của lòng mình, muốn sao được vậy, và không bao giờ vượt ra khỏi khuôn-khổ của đạo-lý hay lẽ thường. Đây là trình-độ tuyệt-hảo của con người ở vào tuổi từ 70 trở lên nếu trước đó họ được giáo-dục đúng cách, tự tìm tòi học-hỏi, có kiến-văn quảng-bác, có tu-tâm dưỡng-tánh, và đã từng-trải cũng như rút được ưu khuyết-điểm trong các kinh-nghiệm về nỗi ê-chề đớn-đau của cuộc đời. 

Ngoài tuổi “tam thập nhi lập" con người ta đến 40 tuổi mới có trình độ “tứ thập nhi bất" tức là có thể hiểu được lý lẽ trong thiên hạ, phân biệt được điều phải điều trái, ai tốt ai xấu, và ít khi sai lầm; đến 50 tuổi mới có trình độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh” tức là có thể hiểu được mệnh trời hay chân lý của tạo hóa; đến 60 tuổi mới có trình độ “lục thập nhi nhĩ thuận” tức là có học-vấn và kinh nghiệm trường đời chín mùi, sự hiểu biết và việc làm mới chu đáo, không thấy những gì nghe được là khó hiểu hay chướng ngại, và có thể phán đoán được ngay mọi việc; đến năm 70 tuổi mới có trình độ “thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ” rất tự nhiên, tức là khi 70 tuổi thì hễ nói hay làm một điều gì là tự nhiên thể hiện đúng chủ tâm của mình, muốn sao được vậy, không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý hay lẽ phải.

Muốn đạt tới mức hiểu biết ở mỗi loại tuổi như đã đề cập ở trên, không phải cứ sống tới tuổi đó là được, người ta còn phải chuyên tâm vào việc học hỏi liên tục từ khi còn trẻ mới đạt được kết quả ấy.


II. Tam Thập Nhi Lập và Việc Học Hỏi

Có tuổi là một việc. Nếu không có học thì dù tới 30 tuổi người ta cũng không có thể tự lập được. Có điều là nếu đã tới 30 tuổi mà không tự lập được vững vàng thì cuộc đời mai hậu sẽ gặp nhiêu gian truân và khó có thể giúp đời một cách hữu hiệu được. Muốn lập thân cho đúng nghĩa của nó, tuổi trẻ phải chú tâm vào việc học. Học không chỉ có nghĩa là cắp sách đến trường, đọc nhiều sách vở để biết chữ nghĩa, hay học được một nghề để kiếm nhiều tiền là được. Việc học phải gồm đủ mọi mặt và có nhiều cách. Mục đích của việc học là để thành người hữu dụng cho nhà cho nước.
Học là noi gương và bắt chước những việc tiền nhân đã làm, những gương sáng của các bậc vĩ nhân quân tử và của những người đồng thời với ta nhưng những việc làm của họ đáng cho ta học hỏi và noi theo để giúp nhân độ thế. Học để tránh những điều sai quấy. Thấy điều hay phải bắt chước, thấy điều sai quấy phải tránh. Người khôn học kinh nghiệm của người khác là vậy. Học để hiểu. Từ những hiểu biết căn bản đó, ta có thể nghiên cứu thêm và nhiên hậu phát minh ra những điều mới. Làm sao học một để biết mười, học cách tìm tòi, học để suy diễn chứ không phải cái học từ chương. Học phải có óc nhận xét và phê phán. Không nên quá tin vào sách vở vì “tận tín ư thư bất như vô thư” (quá tin vào sách thà đừng có sách còn hơn) là vậy.
“Học hành” có nghĩa là những điều gì học được phải đem thực hành để giúp ích cho người cho đời. Biết mà để đó cũng giống như không biết. Biết điều phải mà không làm thì cái biết đó chẳng có ích gì cho nhân quần xã hội. Hơn nữa, khi ta học được mà không đem thực hành thì cái học của ta cũng mai một đi. Chính vì thế mà việc học ở các nước tân tiến đều đi từ kiến thức tới thí nghiệm, trắc nghiệm, áp dụng, rồi thi hành, và cuối cùng lượng giá và cải tiến để rút ưu khuyết điểm hầu giúp ích cho đời sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Học để làm người là cái học quan trọng nhất dưới Chế độ Việt-Nam Cộng-Hòa và các nước Á Đông.
– Mục-đích việc học của Phương Đông là “tiên học lễ hậu học văn” để chú trọng tới việc xây dựng con người toàn diện về phép tắc, sự giao thiệp, lễ độ, tinh thần, và đạo đức cũng như kiến thức.
– Cái học của Âu-Mỹ chỉ chú-trọng về mặt chuyên môn để đào tạo các chuyên gia hơn là đào tạo con người. Tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại có cốt lõi của cái học Phương Đông và bây giờ lại được thêm cái tinh túy về khoa học kỹ thuật Âu-Mỹ thì thật là điều tuyệt diệu. Học để có kiến thức và chuyên môn thì dễ. Muốn học để làm người toàn diện, tuổi trẻ cần chú ý các mặt sau:
+ Phải học sao để làm người con hiếu thảo ở trong gia-đình vì chữ “hiếu” là Rường mối của mọi nết ăn ở trên đời. Con cái phải có nghĩa vụ đối với cha mẹ mới là người con có hiếu và mới được gọi là người có ăn học. Nghĩa vụ đối với cha mẹ gồm: ân cần, săn sóc cha mẹ, kính trọng cha mẹ, chăm chỉ học hành, giúp đỡ cha mẹ, và nghe lời cha mẹ khuyên bảo,v.v. Con người mang tội bất hiếu thì chắc chắn họ chỉ là kẻ sâu dân mọt nước.
+ Có "đễ" với anh em và đồng-bào mình. Đối-xử tử-tế, hợp đạo-lý, giữ trọn tình-nghĩa trước sau với anh em đều được gọi là “đễ.” Có đễ thì anh chị em mới hòa-thuận, đồng-bào mới thương yêu nhau, và nhiên-hậu, xã-hội mới thịnh-vượng.
+ Học sao để có sự “cẩn-trọng” và “chân-thành.” Khi làm việc gì, khi tiếp-đãi ai, “cẩn-trọng” là việc ta phải chú-tâm, chẳng-hạn như khi giao-tiếp với tha-nhân, ta phải giữ lễ và tôn-trọng ý-kiến người ta. Sự “chân-thành” phải được coi là cốt-yếu. Có chân-thành thì mới có tín. Khi làm việc phải cẩn-trọng. Muốn thế, ta phải có kế-hoạch thi-hành và kiểm-soát trong tinh-thần khoa-học và dân-chủ mỗi khi bắt đầu một công-việc. Có cẩn-trọng và có tín thì mới có thể làm việc ích-quốc lợi-dân được.
+ Phải học sao có được lòng từ-bi, bác-ái, khoan-dung, và độ-lượng. Đạo Phật có “đại từ đại bi”; Đạo Thiên-Chúa có “bác-ái” (yêu người như yêu mình, yêu cả kẻ thù); và trong Khổng-Giáo có lòng “nhân.” Tất-cả đều dạy ta có lòng yêu thương tha-nhân, khoan-dung độ-lượng với mọi người, và ăn-ở phải có lòng nhân. Tuy-nhiên, ta phải sáng-suốt để gần-gũi người có nhân, và xa-lánh kẻ bất-nhân. Khoan-dung độ-lượng có nghĩa là tha-thứ và thương-yêu mọi người nhưng không có nghĩa là để kẻ bất-nhân lợi-dụng làm hại mình. Nếu không giáo-hóa được kẻ bất-nhân ta phải xa-lánh họ để tìm cách giáo-hóa cho họ sau.
Phải lập-chí. Khi muốn làm việc gì và quyết-định làm cho bằng được, đó là có “chí.” Người xưa thường nói: “có chí thì nên”; “có chí làm quan, có gan làm giàu”; “làm trai chí ở cho bền, chớ lo muộn vợ, chớ phiền muộn con”; “làm trai có chí lập-thân, rồi ra gặp hội phong-vân có ngày”; “làm trai quyết-chí tang-bồng, sao cho tỏ mặt anh-hùng mới cam.”
Khi có “hiếu,” “đễ,” “cẩn-trọng,” “chân-thành,” “từ-ái,” “khoan-dung độ-lương,” và “lập được chí” thì cái học của ta mới toàn-vẹn. Tuy-nhiên cuộc đời vẫn có nhiều ngoại-lệ, nhất là ở thời nay. Hoàn-cảnh và dòng-giống cũng có ảnh-hưởng đến sự hiểu-biết và sự lập-nghiệp của con người. Xưa cũng như nay vẫn có người lập-nghiệp và tự-lập ở tuổi hai mươi, có người còn lập-nghiệp sớm hơn nữa. Cùng một trình-độ học-vấn, mỗi tuổi hiểu sự-vật một cách khác. Cùng một tác-phẩm mỗi lần đọc lại ta lại hiểu rõ thêm. Cuộc sống và sự học-hỏi giúp ta hiểu đời càng lúc càng kỹ hơn. Đến tuổi 60 thì mỗi khi thấy sự việc dù trái hay phải, dù thiện hay ác, dù sướng hay khổ, hết thẩy đều không có gì phải ngạc-nhiên. Bởi thế mới có trình độ “nhi nhĩ-thuận.”

III. Kết-Luận

Thông-minh tài-giỏi không cứ phải do tuổi-tác nhiều mà có. Người xưa thường nói “Lão- ô bách-tuế không bằng phượng-hoàng sơ-sinh” (con quạ già trăm tuổi không bằng chim phượng-hoàng mới sinh ra) là vậy. Thông-minh có thể do nòi-giống và sự bẩm-sinh mà có. Kiến-thức và kinh-nghiệm phải do học-hỏi mà thành. Tuổi đời cộng thêm việc học-hỏi và từng-trải mới đạt được các trình độ “tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất-hoặc, ngũ thập nhi tri thiên-mệnh, lục thập nhi nhĩ-thuận, và thất thập nhi tùng-tâm sở-dục bất du-củ.”
Ta cần phải chú-tâm về việc học ngay từ khi còn trẻ và tiếp-tục học mãi cho đến già. Học phải bao-gồm từ sự bắt-chước, trau-giồi kiến-thức, nghiên-cứu, áp-dụng, thực-hành, đến việc học làm người, nhất-nhất đều cố-tâm thì mới mong “tam thập nhi-lập” một cách đúng nghĩa của nó được.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét