Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2015

NGÀN GIỌT LỆ RƠI




A Thousand Tears Falling 

Lời nói đầu: 

Sau gần 40 năm cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam đã gây nên nhiều hoàn

cảnh éo le trong cuộc sống... 

Cuộc "Nội chiến" giữa hai miền Nam Bắc, 

giữa Việt Nam Hoa Kỳ đưa  đến cảnh gia đình chia cắt. 

Câu chuyện được ghi lại lần này là một gia đình phân chia đôi ngả. 

Cha và con trai theo miền Bắc. Mẹ và 5 con theo miền Nam. 

Câu chuyện thật và đầy đủ tình tiết để dựng nên một cuốn phim làm di 

sản cho đời sau... 



                                 Chuyến đò vĩ tuyến


Phim ảnh Hoa Kỳ thường hay phỏng theo các cuốn tiểu thuyết hoặc ký sự dựa theo chuyện có thật đã xảy ra.


Nếu người Việt chúng ta muốn thực hiện một cuốn phim tại hải ngoại, để có thị trường tiêu thụ (thưởng thức) phải là phim nói Anh ngữ, có các vai Mỹ và Việt, tình tiết cần éo le, hấp dẫn, pha chút màu sắc điệp viên với các giây phút lo sợ kịch tính. Ðồng thời có những lúc vai chính phải ray rứt nội tâm. Khi màn ảnh chiếu gần, ghi rõ cách diễn tả bằng nét mặt .v.v... 

Sự lựa chọn giữa lý tưởng và bổn phận của các vai chính làm cho chuyện phim đóng mở, lôi cuốn khán giả. Nội dung cần có cơ hội để lấy ngoại cảnh từ Việt Nam, Nhật Bản, Hạ Uy Di, Hoa kỳ và Âu châu.


Vai chính đi từ những phân cảnh của gia đình Việt Nam trong chiến tranh đến các buổi tiếp tân của ngoại giao đoàn tại các quốc gia Tây phương. Từ các phòng ăn tráng lệ tại các câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ cho đến các chiến khu ở rừng già Miền Nam . Từ văn phòng của bộ ngoại giao chính phủ cộng sản Việt Nam đến cơ sở tình báo của Hải quân trong Ngũ Giác Ðài. Một chuyện phim như thế mà phỏng theo một câu chuyện hồi ký có thực thì vô cùng lý thú. Có thể tìm thấy không? Trên thực tế chuyện này đã xảy ra.



Chúng ta có thể tìm được câu chuyện tình tiết như vậy với nội dung bao gồm cuộc chiến Quốc Cộng giữa Việt Nam với Việt Nam. Giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Câu chuyện gián điệp thực sự xảy ra đã được kể trong cuốn hồi ký của một phụ nữ...




Người đàn bà viết cuốn sách này tên là Ðặng Mỹ Dung và cuốn sách này tựa đề là " Ngàn Giọt Lệ Rơi ". Nguyên tác Anh ngữ là :            
"A Thousand Tears Falling ". Bà Yung Krall sáng tác theo thể tự truyện dựa vào cuộc đời của cha mẹ rồi đến chính cuộc đời của tác giả. Tất cả mọi danh tính đều giữ nguyên như là một sử liệu.

Dựa theo tác phẩm này, chúng tôi viết bản phác họa cho một cuốn phim tương lai của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại.

Ðây là phim truyện về một người chủ gia đình theo kháng chiến rồi đi tập kết 54 trở thành nhân viên cao cấp trong chính phủ cộng sản. Người vợ ở lại miền Nam trong vùng quốc gia rồi di tản qua Hoa Kỳ. Bà đã từ chối không về sống với chồng ở Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất, con cái mỗi người theo một ngả.

Cuộc chiến Quốc Cộng tiếp tục bàn giao cho thế hệ thứ hai. Tác giả là con gái trong gia đình đã thành hôn với một sĩ quan hải quân Mỹ. Trong hoàn cảnh éo le, cô gái đã trở thành gián điệp nhị trùng. Một bên là cha ruột, một bên là chồng. Ðứng giữa hai phe thù nghịch nhưng tác giả thực sự làm việc cho phía Hoa Kỳ. Ðã góp phần phá vỡ âm mưu của Hà Nội cài người vào Bộ Ngoại Giao tại Hoa Thịnh Ðốn. 

Chuyện thật đã xảy ra tại Mỹ vào cuối thập niên 70. 


Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phe quốc gia và đồng minh Hoa Kỳ thường bị phía cộng sản cài người nằm thật sâu vào các cơ quan của ta, nhưng phe ta chưa hề có được những đòn gián điệp đáng kể lừa được đối phương.

Câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi là một biệt lệ đặc biệt cần được biết đến, cần được nhắc lại và cần được đóng thành phim.


Cảm kích với nội dung của tác phẩm, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị sau đây là câu chuyện về một cuốn phim trong tương lai ...






                                                                o0o


PHÁC HỌA CHUYỆN PHIM “NGÀN GIỌT LỆ RƠI” 

“A thousand Tears Falling” bắt đầu từ ngoại cảnh tại Nhật Bản. Thời gian lúc đó là tháng 6-1975, không gian là tại phòng tiếp tân của đại khách sạn Nhật Bản tại Ðông Kinh.
Tại đây, một hội nghị quốc tế với các nước Ðông Nam Á đang diễn ra. Ông Ðặng Văn Minh là trưởng phái đoàn của nước cộng sản Việt Nam vừa chiến thắng Sài Gòn 2 tháng trước, đến dự hội nghị với niềm tự hào và được sự lưu ý của báo chí thế giới.
Tuy nhiên, cũng vào chiều hôm đó tại Ðông Kinh, người cán bộ cao cấp của phe cộng sản gặp lại con gái sau 23 năm xa cách.
Từ hình ảnh trong đại sảnh của khách sạn quốc tế tại Tokyo, phía trước treo cờ các nước dự hội nghị có cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh vị trưởng phái đoàn rạng rỡ tươi cười mở đầu cuốn phim để tiếp đến hình ảnh chiến khu với cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Ông Minh sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, đi theo Kháng Chiến và trở thành nhân viên cao cấp của Mặt Trận. Năm 1954, ông dẫn con trai lớn là Ðặng Văn Khôi ra Bắc. Vợ ông Minh là bà Trần Thị Phàm và 5 con nhỏ ở lại miền Nam. Khi chia tay hẹn 2 năm trở lại nhưng thật sự phải hơn 20 năm sau người cộng sản mới vào được Sài Gòn thì lúc đó đã biết bao nhiêu vật đổi sao rời.
Người con trưởng theo bố ra Bắc đã trở thành sĩ quan ưu tú của quân đội nhân dân được gửi đi Nga học về hỏa tiễn phòng không năm 1968.
Ðến năm 1975, ông Minh trong khi vẫn một lòng trung thành với chế độ và trở nên cán bộ cao cấp ngành ngoại giao thì người con trưởng Ðặng Văn Khôi có thái độ chống chiến tranh nên đã bị sa thải khỏi quân đội miền Bắc.
Tại miền Nam, người con trai thứ của ông bà là Ðặng Hải Vân, lúc ông tập kết chỉ có 5 tuổi sau này đã trở thành phi công của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng không may Hải Vân đã bị thiệt mạng trong một phi vụ bay huấn luyện tại Hoa Kỳ lúc 21 tuổi. Chị Ðặng Mỹ Dung là con thứ tư của ông bà đã thành hôn với đại úy phi công của Hải Quân Hoa Kỳ tại Sài Gòn và năm 1975 gia đình sống tại Hawaii. 
Cuộc sống thơ mộng và bình yên của ông Krall và bà Mỹ Dung hoàn toàn thay đổi từ tháng 4-1975.
Cũng vào tháng 4-1975, lúc đó cha của bà Dung là ông Minh đang làm đại sứ cộng sản Hà Nội tại Nga Sô, mẹ của bà và đứa em út thì kẹt ở Sài Gòn.
Với bao năm xa cách, với quan niệm về cuộc sống khác biệt, bà Phàm vợ ông Minh không hề có ý muốn ở lại Sài Gòn để chờ đoàn tụ với chồng. Ðặng Mỹ Dung liền yêu cầu thiếu tá Krall tìm cách về Sài Gòn đón gia đình bà qua Mỹ.

Khi ông Krall qua Sài Gòn đã lâu mà chưa có tin tức gì. Tại Hawaii, bà Ðặng Mỹ Dung lo sợ đã nói chuyện trực tiếp qua điện thoại cầu cứu với đề đốc Gaylor, tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng.
Lời nói chỉ vắn tắt báo cáo chuyện chồng bà về Sài Gòn để lo cứu giúp gia đình sao chưa thấy qua, nhưng bà nói thêm một tin tức động trời bà là con gái của đại sứ cộng sản Việt Nam tại Mạc Tư Khoa. 
Lập tức guồng máy quân báo của Hải Quân Hoa Kỳ chuyển động và cả FBI lẫn CIA nhập cuộc.
Hệ thống tình báo Mỹ ghi nhận ngay đây là một đầu mối vô cùng quan trọng mà tại sao lâu nay không ai biết. Ngay cả lúc hồ sơ thành hôn của vị sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không ai lưu ý đến mối liên hệ huyết tộc quan trọng của cô dâu nước Mỹ có đầu mối Hà Nội. Họ cứ tưởng đây là cô gái thuần túy Sài Gòn.
Tiếp theo khi chuyến bay chở mẹ và em gái út của Ðặng Mỹ Dung ra khỏi Việt Nam do CIA Sài Gòn trực tiếp sắp đặt thì một khế ước bất thành văn đã bắt đầu. Mỹ Dung nợ khối tình báo Mỹ một yêu cầu. Cuộc đời điệp viên khởi sự từ đây !  
Khi bà Phàm đã yên ổn tại Hoa Kỳ thì hơn 60 ngày sau Mỹ Dung dắt con nhỏ qua Nhật Bản thăm thân phụ đã hơn 20 năm xa cách. Guồng máy tình báo của thế giới tự do mở chiến dịch để Con Chim Xanh với Ngàn Giọt Lệ lên đường công tác. 
Bây giờ xin mời khán giả trở lại Ðông Kinh của tháng 6-1976.
Cánh cửa phòng họp riêng của đại sảnh Tokyo hé mở, một cán bộ ngoại giao của Hà Nội bước vào trình với thủ trưởng Ðặng Quang Minh: “Thưa đồng chí thủ trưởng, bà Việt kiều ở Mỹ và đứa con lai đã có hẹn xin vào gặp.”
Ông Minh vẫn còn đang xem hồ sơ hội nghị, nói mà không nhìn lên: “Ðây là đại diện Hội Việt Kiều Yêu Nước đến để động viên và mừng đất nước thống nhất. Ðồng chí mời vào đi.”

Ðặng Lệ Dung bước vào cùng con gái nhỏ nép một bên.
Hơn 20 năm qua, lúc thân phụ ra đi, cô là đứa bé con. Giờ đây, đứa cháu ngoại lai Mỹ xinh đẹp của ông mắt mở to nhìn người đàn ông xa lạ mà e ngại.
Cuộc gặp gỡ riêng tư nhưng hết sức khách sáo. Cả cha con đều phải đóng kịch dù rằng trong lòng như lửa đốt.
Trước khi chia tay, ông Minh nói nhỏ với con gái là sẽ thu xếp để gặp lại người vợ cũ là bà Phàm đã hiện di tản qua Hoa Kỳ.
Sau cuộc gặp gỡ lần đầu tiên vào tháng 6-1975, cuộc đấu tranh chiến tranh chính trị, tình báo và ngoại giao giữa hai cha con bắt đầu. Một bên là Việt Nam cộng sản đã thống nhất và một bên là guồng máy tình báo Hoa Kỳ.
Cả hai bên đều tìm cách mua chuộc lẫn nhau. Cuốn phim Ngàn Giọt Lệ Rơi thực sự sẽ có cả hàng trăm phân cảnh hết sức độc đáo để dàn dựng.
Thủ trưởng Ðặng Quang Minh về báo cáo lên bộ chính trị và được đồng ý cho phép qua Paris gặp lại vợ con. Ông dự trù sẽ thuyết phục để đưa vợ con trở về Hà Nội dưới hình thức chiến thắng ngoại giao sau khi tuyên bố là gia đình ông ở Sài Gòn đã bị Hoa Kỳ áp đảo bắt phải di tản. Hà Nội chắc chắn một lần nữa sẽ đạt được một thành tích đánh bại Hoa Kỳ trên diễn đàn dư luận quốc tế.
Phía Hoa Kỳ, Hoa Thịnh Ðốn đã cho phép CIA giúp đỡ hai mẹ con bà Phàm qua Pháp để bắt nhịp cầu làm việc trực tiếp với tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Paris. Tình báo Mỹ chấp nhận nhập cuộc. 
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chính trị giữa cộng sản và Hoa Kỳ đã trở thành một mối xung đột và mâu thuẫn trong nội bộ gia đình họ Ðặng, vượt ra khỏi tầm tay của những thế lực đằng sau từ cả hai bên.
Ông Minh hết lòng thuyết phục bà vợ tào khang trở về với một đất nước nay đã thanh bình, độc lập, thống nhất và hoàn toàn chiến thắng. Ông thề thốt lấy cả cuộc đời ra để bảo đảm cho sự an toàn của bà và người con út cùng đi với bà. 
Nhưng bà Minh vẫn còn dè đặt và sau cùng quyết định ở lại Hoa Kỳ. Một quyết định sáng suốt mà ngày nay bà vẫn cho là hết sức may mắn.
Trong thời gian đó, phe cộng sản hết lòng chiều chuộng móc nối với Ðặng Mỹ Dung với hy vọng cô sẽ thuyết phục bà mẹ. Và hơn nữa, dù bà Minh chưa muốn về Hà Nội nhưng Mỹ Dung với ảnh hưởng sẵn có trong quân đội Mỹ, có thể dễ dàng trở thành một nguồn tin đáng giá và tốt nhất là chuyển hộ các tài liệu trên đường hàng không từ Hoa Thịnh Ðốn qua Paris.

Con Chim Xanh của Ngàn Giọt Lệ Rơi luôn luôn sẵn sàng hợp tác như là người cảm tình với phe chiến thắng mà thân phụ của cô cũng góp phần.


Dần dần Mỹ Dung gián tiếp trở thành một phụ nữ Việt Nam yêu nước kết hôn với người Mỹ những vẫn hồn nhiên đóng góp công tác cho chính phủ Hà Nội và các tổ chức thân Cộng.
Cũng vào thời điểm đó, sinh viên thân cộng Trương Ðình Hùng là con của luật sư Trương Ðình Dzu đang hoạt động cho tình báo cộng sản. Hùng du học Mỹ trước 1975 và tiếp tục ở lại Hoa Kỳ móc nối lấy tin tức từ Bộ Ngoại Giao. Hùng rất tin tưởng ở sự thân hữu chặt chẽ của Mỹ Dung với Hà Nội và tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Pháp. 
Ronald Humphrey là nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ được phép đọc tài liệu tối mật.
Lúc còn ở Việt Nam, Humphrey lấy cháu gái Võ Thị Ðịnh, một nữ cán bộ quân sự của Giải Phóng Miền Nam. Hà Nội đưa điều kiện nếu Ronald muốn cho phép đem vợ qua Mỹ phải lấy hồ sơ mật của Bộ Ngoại Giao Mỹ trao cho Trương Ðình Hùng.
Trương Ðình Hùng nhờ Ðặng Mỹ Dung chuyển tài liệu cho cộng sản qua tòa đại sứ Việt Nam tại Paris đưa tài liệu cho Việt cộng. Tài liệu Humphrey đưa ra qua tay Hùng đến Mỹ Dung thì CIA đổi thành tài liệu giả để chuyển qua Pháp.

Khi chính phủ Hoa Kỳ quyết định truy tố Trương Ðình Hùng và Humphrey thì cần có Mỹ Dung ra làm nhân chứng. Nếu như thế là cuộc đời gián điệp sẽ chấm dứt và đồng thời bà chấp nhận mọi rủi ro thách đố về sau.

Ðây là một quyết định khó khăn đối với một phụ nữ. Lần đưa mẹ ra khỏi Việt Nam, Mỹ Dung đã phải trả giá bằng cách bước vào con đường chông gai của nữ điệp viên. Lần này lại thêm một thử thách mới.

Sau cùng Mỹ Dung yêu cầu chính phủ Mỹ phải cam kết đưa cha và anh bà được vào Mỹ, trước khi phiên tòa bắt đầu.

Việc này sẽ được thu xếp trước khi vụ gián điệp tại Bộ Ngoại Giao được chuyển qua tòa án. Hồ sơ cam kết mật đưa lên tổng thống Carter xin chấp thuận. Guồng máy tình báo Hoa Kỳ lại mở chiến dịch mới.

Bà Mỹ Dung viết thư cho Lê Duẩn, tổng thư ký và Nguyễn Duy Trinh bộ trưởng ngoại giao Hà Nội xin cho cha là Ðăng Quang Minh qua London gặp gia đình vợ con vì bà Minh bị bệnh nan y có thể chết.

Giáng Sinh năm 1977, Hà Nội chấp thuận cho ông Minh xuất ngoại. Trong hai tuần lễ bên cha, cả hai chị em bà Mỹ Dung thuyết phục ông Minh đi Mỹ nhưng không thành công.

Cuộc tranh luận, phân giải trong gia tộc với nghĩa phu thê, và tình cha con của một gia đình Quốc Cộng đã kéo dài suốt mùa Giáng Sinh tại thủ đô sương mù London năm 1977.

Ông Minh đã dành cả cuộc đời đi theo con đường của ông, đêm nằm trằn trọc cùng phòng với đứa cháu ngoại thân yêu.

Bà Minh suốt thời gian nghe con gái và chồng tranh luận mệt nhoài nên đã nói những lời sau cùng trước khi chia tay đôi ngả. Bà yêu cầu chồng và các con từ nay chấm dứt tranh luận, cãi cọ qua lại về chính trị, về chủ thuyết, và tương lai. Hãy ngồi với nhau lần cuối trong tình huyết tộc rồi đường ai nấy đi.

Cuộc chia tay của hai phe đấu tranh chiến tranh chính trị trong một gia đình bây giờ chỉ còn toàn nước mắt của “Ngàn giọt lệ rơi.”

Sau cuộc họp mặt Giáng Sinh lịch sử 1977 của gia đình họ Ðặng, Hoa Kỳ quyết định đưa vụ án ra ánh sáng. Chính phủ Mỹ truy tố Trương Ðình Hùng và Ronald Humphrey mỗi người bị tù 15 năm. Cả hệ thống ngoại giao của cộng sản Hà Nội bị lung lay, rung động từ đại sứ Ðinh Bá Thi tại Liên Hiệp Quốc cho đến đại sứ Ðặng Văn Sung tại Paris.

Câu chuyện gián điệp nữ Ðặng Mỹ Dung được viết lại thành ký sự bằng Anh ngữ nhưng CIA đã yêu cầu bỏ đi gần 200 trang trước khi in. Một ngày nào đó bản Việt ngữ sẽ phát hành đầy đủ hơn để chúng ta biết rõ về một gia đình Quốc Cộng đã chia ly, đoàn tụ và vĩnh biệt ra sao.

Về sau ông Ðặng Quang Minh sống độc thân tại Hà Nội, thỉnh thoảng đi thăm mộ con trai là thiếu úy Ðặng Hải Vân của KQVNCH tại miền Nam. Ông mất năm 1986, hưởng thọ được 77 tuổi.

Ðặng Văn Khôi, người con trai lớn theo ông tập kết ra Bắc có đến chào cha trước khi vượt biên, hiện sống ở miền Ðông Hoa Kỳ. Từ một sĩ quan của đơn vị phòng không quân đội nhân dân đã du học bên Nga, nay ông trở thành người tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Ông sống độc thân, năm nay 67 tuổi.

Bà Minh sống với vợ chồng Ðặng Mỹ Dung đã về hưu. Khi được tin chồng chết, bà không muốn về chịu tang dưới nghi lễ của đảng cộng sản. Một lòng kiên quyết, bà muốn để cho chồng đi trọn con đường ông lựa chọn.

Ông chết trong lòng đất quê hương, nơi có mộ phần của con trai ông là sĩ quan miền Nam. Bà Minh qua đời khi nước Mỹ bước vào thế kỷ thứ 21. Có thể ông bà đã cùng đứa con trai đoàn tụ ở một nơi không còn khác biệt về ý thức hệ. 

Cuốn sách A Thousand Tears Falling hiện được một số giáo sư Hoa Kỳ dùng để dạy cho các trường trung học. Còn cuốn phim A Thousand Tears Falling của Giao Chỉ thì đang dự thảo. Cũng mới chỉ là một ý kiến mà thôi. Chỉ sợ rằng để lâu quá thời gian sẽ làm cho nước mắt đã khô hết cả mất rồi. Nhưng dù lâu hay mau, câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi sẽ rất xứng đáng để quay thành phim. Và hàng triệu giọt nước mắt sẽ chan hòa rạp hát. Vì vậy chúng tôi xin kể lại chuyện này nhân ngày 30 tháng 4 năm 2014, ba mươi chín năm sau. 

Sự kết thúc hai cuộc nội chiến ở Mỹ (thế kỷ 19) và tại Việt Nam (thế kỷ 20). 
Ðây là một đề tài đáng thảo luận cho rõ.


Ðảng Cộng sản Việt Nam xưa nay vẫn từ chối, không dùng hai chữ "nội chiến" 

Họ cấm không ai được dùng hai chữ đó khi nói tới cuộc chiến tranh Nam Bắc . 
Từ năm 1955 đến 1975.Chúng ta đã từng dùng từ "nội chiến'. Lý do không phải vì muốn làm khác với đảng Cộng sản, mà chỉ nhìn một cách khách quan. cuộc chiến 20 năm đó, một cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam, đúng là nội chiến. Chẳng khác gì cuộc chiến giữa quân Cộng sản (Mao trạch Đông) và quân Quốc dân Đảng (Trưởng giới Thạch), giữa Nam Hán và Bắc Hàn, cũng đều là nội chiến. Như vậy, Việt Nam lâm vào nội chiến suốt hai mươi năm qua là điều không thể nào chối cải được .  Ðảng Cộng sản muốn tuyên truyền với dân miền Bắc, bắt mọi người phải gọi tên cuộc chiến là “chiến tranh chống Mỹ cứu nước;” cho nên họ không cho phép dùng hai chữ " nội chiến" Gọi đó là nội chiến tức nhiên sẽ tố cáo đảng cộng sản gây ra cuộc tương tàn nồi da xáo thịt. Một người từng bị ghép là phản chiến đã "phạm húy" trong bài hát "Gia tài của mẹ" 
“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu - Một trăm năm đô hộ giặc Tây - Hai mươi năm
 nội chiến từng ngày...”

Khi ca khúc trên được phổ biến rộng rãi, dân miền Nam hát đến hai chữ “nội chiến” thì thấy đó là chữ bình thường. Ðây là một cuộc nội chiến, quân đội Việt
Nam Cộng Hòa bị đánh nên chống cự. Nhưng đảng Cộng sản không chấp nhận lối nhìn đó. Các cán bộ nằm vùng đã kết tội Trịnh Công Sơn khi dùng hai chữ “nội chiến.” Trong đoạn cuối bài hát, Trịnh Công Sơn kể tâm sự của bà mẹ, kết thúc bằng lời kêu gọi:

“Mẹ mong con mau bước về nhà, Mẹ mong con lũ con đường xa - Ôi lũ con cùng cha, quên hận thù!”

Gọi tên những người đang giết nhau trên chiến trường là “lũ con cùng cha” và mong họ hãy “quên hận thù,” tức là bà mẹ của nhạc sĩ xác định cuộc chiến tranh này là huynh đệ tương tàn. Trước Trịnh Công Sơn, trong trường ca Mẹ Việt Nam, Phạm Duy cũng kết thúc bài “Những dòng sông chia rẽ” với lời nhắn nhủ:

“Lũ con lạc lối đường xa - Có con nào nhớ mẹ ta thì về.”

Những lời mẹ nói với “lũ con lạc lối đường xa” và kêu gọi chúng “mau bước về nhà” bị các cán bộ cộng sản coi là phụ họa theo chiến dịch “chiêu hồi” của chính
phủ miền Nam. Ðề tài Mẹ rất được dân miền Nam tha thiết. Gia Tài Của Mẹ là tựa đề một cuốn truyện của Dương Nghiễm Mậu xuất bản cùng thời gian với
trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy, mấy năm trước khi Trịnh Công Sơn viết bài ca cùng tựa đề. Trong thời gian đó, Bộ Chiêu Hồi vẫn dùng hình ảnh “Tung cánh chim tìm về tổ ấm” khi giới thiệu những cán bộ và sĩ quan miền Bắc thay đổi ý kiến, buông súng, trở về cuộc sống bình thường, như ca sĩ Ðoàn Chính, Thượng tá Tám Hà, vân vân.

Hai chữ “nội chiến” khiến Trịnh Công Sơn bị lên án và bị đe dọa. Một cán bộ cộng sản nằm vùng ở Sài Gòn trong thời gian đó đã kết tội Trịnh Công Sơn khi gọi cuộc “chiến tranh chống Mỹ cứu nước” của họ là nội chiến. Anh thề trước mặt mọi người, rằng “khi cách mạng thành công” người đầu tiên anh sẽ đem xử tội là Trịnh Công Sơn. Chỉ vì hai chữ nội chiến. Ðó là chưa kể nhạc sĩ còn nhắc nhở đến “ngàn năm nô lệ giặc Tàu” trong khi cộng sản ở ngoài Bắc và trong Nam mỗi lần nhắc đến Trung Quốc là phải thêm hai chữ “Vĩ đại!” Và họ dạy dân hát bài Ðông Phương Hồng ca ngợi Mao Trạch Ðông! 

Bây giờ họ vẫn còn ôm lấy 16 chữ vàng và bốn tốt, có ai dám nhắc nhở cảnh “nô lệ giặc Tàu” đâu?
Chúng tôi không muốn nêu tên người cán bộ nội thành đã tuyên án Trịnh Công Sơn, không muốn con cháu anh bị ảnh hưởng, vì gần nửa thế kỷ đã trôi qua, cả hai đã qua đời cả rồi. Hơn nữa, trước khi từ giã cõi đời chính anh cán bộ này đã tỉnh ngộ, công khai tuyên bố rút ra khỏi đảng Cộng sản, hăng hái tham gia cuộc tranh đấu đòi dân chủ tự do. ( muốn biết chuyện này rõ hơn có thể hỏi họa sĩ Hồ Thành Ðức, người đã nghe lời đe dọa đó, và hiện còn sống ).

Tại sao Bộ Chính Trị Cộng sản kiêng k hai chữ “nội chiến” như vậy? Vì họ cần
Đưa hàng triệu thanh niên miền Bắc vào chiến trường trong Nam. Họ biết không thể thúc đẩy người ta đi vào cõi chết chỉ vì muốn theo Liên Xô, Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội toàn thế giới. Cho nên phải kích động tinh thần yêu nước người miền Bắc,kêu gọi thanh niên đi đánh miền Nam  để chống 
đế quốc Mỹ. Mặc dù những năm từ 1959-1963, dân miền Nam chưa thấy bóng dáng lính Mỹ, trong khi 40,000 quân Mỹ đang đóng ở Nam Hàn, 50,000 nay vẫn còn đóng ở Nhật Bản. Suốt những năm chiến tranh, Cộng sản tuyên truyền đồng bào ngoài Bắc rằng dân miền Nam đang bị Mỹ đô hộ, bị Mỹ bóc lột, dân đói khổ. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều người từ Bắc vào thăm họ hàng trong Nam đã dành dụm, chắt bóp, mang theo từng túi gạo, từng ve nước mắm, cho đến mấy đôi đủa tre, vài cái chén ăn cơm, tưởng rằng mình sẽ giúp đỡ anh chị em đói khổ vì bị Mỹ bóc lột .!!! Hãy nhìn từ đó tới nay, dân Nam Hàn, dân Nhật Bản đã bị Mỹ bóc lột như thế nào ?  Sẽ rõ ...!  Sau năm 1975 thì chính đồng bào miền Bắc cũng nhìn ra sự thật . 
Nhà văn Dương Thu Hương đã ngồi xuống lề đường Sài Gòn mà khóc. Bây giờ, bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản không còn nhắc đến khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước” nữa. Vì ai cũng thấy trong một thế giới chia rẽ, muốn chọn lựa đồng minh thì chọn nước Mỹ vẫn an toàn và khôn ngoan hơn là chọn Liên Xô và
Trung Quốc.

Trong cuộc nội chiến Việt Nam, bên nào cũng có đồng minh. Vì cuộc chiến tranh đó chỉ là cuộc tranh chấp giữa hai khối tư bản và cộng sản. Nước Việt Nam không may bị lôi cuốn vào cuộc chiến quốc tế đó, vì chính trong nước, mình đã chia rẽ. Từ năm 1930 trong phong trào chống Pháp đã phát sinh hai khuynh hướng: quốc gia và quốc tế. Ðảng Cộng sản chọn theo đường quốc tế, theo ông Stalin, ông Mao Trạch Ðông làm cách mạng giải phóng cả nhân loại. Các đảng phái như Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt, và các nhà ái quốc từ Phan Bội Châu đến Nguyễn Thái Học; rồi sau này tới giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, các nhà văn Khái Hưng, Nhượng Tống, Nguyễn Tường Tam, Phan Văn Hùm, đều đặt dân tộc, quốc gia lên trên các chủ nghĩa. Ðảng Cộng sản không thể chấp nhận các đảng phái quốc gia tồn tại, vì trái với đường lối chuyên chính vô sản của Stalin và Mao Trạch Ðông. Cho nên một cuộc “nội chiến” đã bắt đầu gây mầm từ 1930, đã đổ máu từ trước năm 1945.

Sau khi Ðại Chiến Thứ Hai chấm dứt, hai khối tư bản và cộng sản cạnh tranh khắp thế giới, một bên là Nga Xô, bên kia là Mỹ và các nước Tây Âu. Trong nhiều dân tộc cũng chia rẽ thành hai khuynh hướng quốc tế và quốc gia, ngay trong lúc còn đang tranh đấu đuổi thực dân, giành độc lập. Indonesia, Philippines, Ấn Ðộ, Miến Ðiện, Mã Lai .v.v... đều có đảng Cộng sản. Các đảng cộng sản khác yếu thế, chỉ có đảng ở nước ta đủ mạnh và đủ nhẫn tâm, tàn bạo, sẵn sàng tiêu trừ các người không cùng ý kiến. Cuộc tấn công miền
Nam nhắm biến toàn thể đất nước thành một phần của thế giới cộng sản. Các nước Nga, Tàu thì chỉ muốn chống Mỹ, bất cứ cách nào và bằng mọi giá cho tới người Việt Nam cuối cùng.

Cũng trong thời gian đó, nhiều nước cũng chia đôi. Nhưng Trung Cộng không tấn công Ðài Loan, Ðông Ðức không đánh Tây Ðức. Chỉ có chiến tranh ở Cao Ly
và Việt Nam mà thôi. Kim Nhật Thành đánh Nam Hàn vì được Stalin khuyến khích,sau khi đã phong tỏa vùng Tây Berlin nhưng thất bại.Gây chiến Đại Hàn sẽ buộc Mỹ phải lo hai mặt trận, ở Châu Âu sẽ yếu đi. Cộng sản Việt Nam gây ra cuộc chiến, biết chắc sẽ được cả Nga và Trung Cộng ủng hộ; vì lúc đó cả hai nước đều đang muốn Mỹ gặp khó khăn khắp nơi, để giúp các đảng cộng sản ở thế giới thứ ba phát triển mạnh hơn. Trong thập niên 1960, hàng trăm “mặt trận giải phóng” được Nga và Trung Cộng giúp nổi lên khắp thế giới.

Cuộc chiến giữa hai khối tư bản, cộng sản diễn ra ở nước ta, cũng vì trong nội bộ người Việt Nam đã chia ra hai khuynh hướng, từ thập niên 1930. Nếu người
Việt không bất đồng ý kiến, hoặc nếu tất cả mọi người Việt chấp nhận sống chung với những người có ý kiến khác mình, không ai muốn chiếm độc quyền
cai trị, thì không nước ngoài nào xúi giục giết lẫn nhau được. Sẽ không có cuộc chiến tranh 1955-1975. Cho nên phải gọi đó là một cuộc nội chiến. Ở nhiều
nước, như Ấn Ðộ, đảng Cộng sản vẫn hoạt động nhưng họ không đủ lực gây chiến tranh. Họ vẫn tranh cử, thắng cử tại nhiều tiểu bang, và ganh đua trong
việc cai trị cho dân khá giả hơn. Khi thất cử, họ trở về với thế đối lập. Cộng sản Ấn Ðộ chấp nhận luật chơi dân chủ, cho nên nước họ không có nội chiến.
Ðảng Cộng sản Nhật Bản cũng giống như vậy.

Từ năm 1930, ý kiến bất đồng chính yếu giữa hai phe quốc gia và quốc tế là xây dựng đất nước sau khi đuổi được thực dân Pháp theo cách nào. Ðảng cộng
sản chọn theo lối Nga, Trung Cộng, còn các đảng phái quốc gia chỉ muốn tổ chức một xã hội bình thường, học hỏi dần dần từ kinh nghiệm của các nước tiến
bộ. Riêng Việt Nam Quốc Dân Ðảng đã chọn chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn. Lựa chọn quan trọng nhất là chọn các mô hình kinh tế và chính trị. Ðảng Cộng sản muốn theo Stalin, Mao Trạch Ðông làm kinh tế tập trung, chỉ huy; về chính trị thì chủ trương độc tài chuyên chính. Các đảng phái quốc gia không đồng ý.


Từ năm 1945 khi giành được độc lập cho tới 1975, một quyết định quan trọng khác là chọn đồng
minh, Đảng Cộng sản chọn Nga và Tàu. Phía Quốc gia chọn các nước dân chủ Tây phương. Các
nước Đống minh cũng chỉ lo quyền lợi của chính họ. Nhưng giữa hai nước Mỹ với Tàu, nước nào là mối đe dọa nguy hiểm cho dân tộc Việt Nam hơn ? Đến nay, chúng ta đã thấy lựa chọn nào là khôn ngoan. Từ 1954 đến 1975, không ai ở miền Nam tự coi
mình đóng vai"chiến  đấu để thực hiện chủ nghĩa tư bản" mà chỉ đánh vì tự vệ. Không ai tự khoe mình cùng với một nước khác (như Cuba) thay phiên"canh gác cho hòa bính thế giới" Chấp nhận cuộc chiến tranh là bất đắc dĩ, vì phải tự vệ. Chỉ có đảng Cộng sản, theo một chủ nghĩa quốc tế,cuồng tín như theo một tôn giáo, mới bắt dân Việt đóng vai trò "tiên phong" trong cuộc cách mạng vô sản toàn thế giới .
Trong thời chiến tranh, đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” che đậy mục đích chính là đưa cả nước “tiến lên chủ nghĩa xã hội.
” Vì họ coi đó chính là cứu nước. Ðể đánh lừa người dân, họ giải thích bằng khẩu hiệu “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội.” Không ai được yêu nước theo cách nào khác. Ðó chính là thảm họa của dân tộc.

Cuộc nội chiến Việt Nam đã chấm dứt. Không ai muốn tái diễn. Cuộc chiến đấu hiện nay còn diễn ra giữa dân Việt Nam và một nhóm băng đảng chiếm độc quyền tham nhũng, thối nát và bất tài. Những người tranh đấu dân chủ ở nước ta hiện nay đang thực hiện giấc mộng của những chiến sĩ quốc gia thời xưa, từ Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn AnNinh,HuỳnhPhú Sổ,Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam.v.v.. Cuộc nội chiến đã qua, bây giờ là một cuộc chiến đấu của người Việt Nam đòi được sống tự do dân chủ ./.



                                       


             KÍNH LOAN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét