Thứ Hai, 30 tháng 4, 2018

VIỆT NAM LÀ MỤC TIÊU BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG CỘNG ?


[FOCUS]CHINA-BEIJING-PLA FORCES' COMMANDS-FOUNDING (CN)
Tờ Topwar của Nga vừa đăng tải bài viết nhận định: Nạn nhân đầu tiên của chủ nghĩa bá quyền của Bắc Kinh có thể là Việt Nam. Vì Việt Nam là mục tiêu hoàn hảo cho Trung Cộng.
Hiện nay, Trung Cộng đang đứng trước những vấn đề thường có của siêu cường đang phát triển. Tất cả những gì dễ dàng chiếm đoạt được, siêu cường này đã sát nhập về tay mình. Đó là thu hồi Hồng Kông, Macau, đảo trên sông Amur và sông Ussuri, chiếm đoạt những vùng lãnh thổ Kyrgyzstan, Tajikistan và Kazakhstan.
Nơi nào không thể chiếm đoạt được bằng biện pháp hòa bình, Trung Cộng xử dụng vũ lực và lựa chọn thời cơ thích hợp. Điển hình có thể kể đến như sự kiện đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam Cộng Hoà năm 1974 cũng như một số đảo Trường Sa cũng thuộc Việt Nam năm 1988.
Chưa kể đến việc sát nhập Tây Tạng và tham gia vào các cuộc chiến khác, nếu so sánh số lượng thì các cuộc chiến do Trung Cộng tiến hành chỉ kém Mỹ.
Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, khi nghiên cứu các cuộc chiến tranh do Trung Cộng tham gia, ngoài số lượng binh lực vượt trội nhiều lần, Quân đội Trung Cộng chiến đấu cũng không tồi trên đất liền và rất có kinh nghiệm tác chiến trên biển.
Ở châu Á có thể Hải quân Trung Cộng chỉ thua sút so với Nhật Bản, nhưng bù lại có số lượng binh lính, vũ khí, kỹ thuật vượt hơn gấp nhiều lần. Đến thời điểm này, những cơ hội xâm chiếm mở rộng lãnh thổ và vùng ảnh hưởng bằng cưỡng chế hòa bình đã hết.
Bước phát triển tiếp theo sẽ là đe dọa chiến tranh và chiến tranh với những chi phí khổng lồ. Tất nhiên, chính quyền Bắc Kinh hiểu rất rõ điều đó và tạm thời đang giới hạn bằng các hoạt động củng cố quyền lực và tăng cường sức mạnh kiểm soát nội bộ tại các vùng đất chưa được quản trị chặt chẽ, củng cố và siết chặt hơn, xây dựng các khu dân cư hiện đại, hạ tầng cơ sở công nông nghiệp, áp đặt chế độ chủ nghĩa ly khai địa phương (trước hết là người Tây Tạng và Duy Ngô Nhĩ cũng như phong trào đòi dân chủ).
Nhưng những hoạt động ấy không diễn ra mãi mãi. Tình hình phát triển cho thấy thượng tầng lãnh đạo Trung Cộng phải lựa chọn giữa chiến tranh ngoài biên ải và nội chiến trong đất nước mình. Họ sẽ lựa chọn điều gì cho tinh thần Đại Hán, lịch sử hàng nghìn năm duy trì "Thiên mệnh" Trung Hoa hoàn toàn không quá khó để dự đoán.
Sự ổn định nội bộ là điều cực kỳ quan trọng đối với một quốc gia khổng lồ như Trung Cộng. Mỗi tỉnh của đại lục trên thực tế có thể trở thành một quốc gia độc lập, giàu mạnh với nền kinh tế phát triển. Chỉ riêng một tỉnh Quảng Đông đã có dân số hơn 100 triệu người với sức mạnh kinh tế không thua kém bất cứ một quốc gia nào ở Đông Nam Á, ở Tân Cương có trữ lượng tài nguyên khoáng sản vô cùng to lớn. Các khu vực kinh tế hùng mạnh đó cũng tồn tại và phát triển theo một nguyên nhân sâu xa: không ai có lợi gì nếu để xảy ra chia rẽ và hỗn loạn.
Khác hơn so với các quốc gia khác, khi cộng đồng xã hội và giới lãnh đạo theo các nhiệm kỳ lang thang với những định hướng khác nhau, giới lãnh đạo Trung Cộng hiểu rất rõ và tuyên truyền sâu rộng cho cộng đồng định hướng phát triển của đất nước và những mục tiêu cuối cùng của quốc gia. Có những mục tiêu được công khai rõ ràng cụ thể "giấcmơTrungCộng" chẳng hạn và có những mục tiêu được người dân Trung Cộng hiểu rất rõ ràng nhưng không công bố (có thể chưa đến thời gian công bố). Các mục tiêu đó có thể là thống trị vùng nước Biển Đông và biển Hoa Đông cùng với những tài nguyên của nó, đặt mục tiêu thống trị chính trị, quân sự trên vùng đất Viễn Đông và Siberia của Nga.
Cho đến hiện nay, cả vùng nước Biển Đông và biển Hoa Đông cũng như vùng đất Viễn Đông của Nga đang bị ràng buộc về kinh tế với siêu cường "thiên triều" này hơn tất cả các khu vực kinh tế nào khác trên thế giới. Các lãnh đạo Bắc Kinh hiểu rất rõ các lợi ích hiện có. Không thống trị được Trường Sa, Trung Cộng không bao giờ có thể là một siêu cường hàng đầu thế giới do không thể kiểm soát được con đường vận tải thương mại và quân sự của thế giới, buộc nó phải đi vào các cảng biển đại lục, chưa đề cập đến giá trị kinh tế của những hòn đảo đó.
Từ lịch sử hàng nghìn năm và những bài học gần đấy Việt Nam hiểu rất rõ, đất nước này mà số phận có một láng giềng như vậy sẽ là ứng cử viên số 1 trong số các nạn nhân của chủ nghĩa bành trường bá quyền và chính trị cường quyền trong khu vực châu Á ngày nay.
Những đặc điểm của mục tiêu hoàn hảo đó là:
- Thứ nhất: Việt Nam hoàn toàn không ràng buộc với bất cứ nước nào các thỏa thuận về liên minh quân sự. Liên xô đã không tồn tại, Nga trên thực tế không phải là một quốc gia có thể giúp đỡ và ủng hộ hiệu quả do những ràng buộc về kinh tế, những phức tạp nội bộ, cuộc đối đầu gay gắt với NATO và châu Âu. Nếu so với Đài Loan và Philiphine thì ít nhất các nước này còn có danh tiếng là đồng minh của Mỹ và Nhật. Xung đột với Việt Nam, nếu tốc độ tiến hành chiến tranh nhanh chóng, thì tiếng vang trên trường quốc tế không lớn và chỉ có Mỹ, Philiphine, có thể cả Nhật Bản lên tiếng phản đối, nhưng đưa ra những giải pháp quyết liệt thi không một nước nào thực hiện.
- Thứ hai: Đài Loan, Nhật Bản, Việt Nam đều có lực lượng hải quân, nhưng lịch sử phát triển hải quân của Đài Loan và Nhật Bản sớm hơn rất nhiều, có thể gây tổn thất nặng nề với Trung Cộng. Lực lượng Hải quân Việt Nam phát triển khá muộn, phương tiện và trang thiết bị đang ở giai đoạn ban đầu của tiến trình hiện đại hóa, các hoạt động diễn tập hợp đồng tác chiến hiện đại trên biển lớn chưa có nhiều, đặc biệt với các lực lượng nước ngoài. Sức mạnh Hải quân Việt Nam chỉ có thể vượt trội hơn so với Philiphine, nhưng Hải quân Philiphine được sự hỗ trợ của Mỹ, ít nhất là về mặt tinh thần và những đe dọa mạnh mẽ từ phía Mỹ.
- Thứ ba: Trong các mục tiêu mà Trung Cộng nhằm đến, thì Đài Loan là đối tượng phải sát nhập bằng giải pháp hòa bình, Đài Bắc trong tranh chấp chủ quyền ở Trường Sa cũng đồng quan điểm với Bắc Kinh, tấn công đánh chiếm quốc đảo này thực tế không có lợi, không những thế còn có thể khơi mào và thúc đẩy phong trào ly khai nội địa. Do đó, kế hoạch đánh chiếm Đài Loan bằng vũ lực chỉ là "đòn đánh lạc hướng dư luận". Mục tiêu nghi binh thứ hai gây sóng gió dư luận là Senkaku Nhật Bản, nhưng đây là mục tiêu khó nhắm và có thể dẫn đến sự phong tỏa hoàn toàn đại lục. Trung Cộng sẽ xụp đổ nếu đẩy Nhật Bản, sau đó là Mỹ vào một cuộc đối đầu thực sự. Mục tiêu các hòn đảo của Việt Nam dễ dàng hơn cả do bộ máy tuyên truyền của Trung Cộng cũng như Hoa kiều hoạt động rất mạnh trên trường thế giới, đồng loạt đưa ra các luận điệu giống nhau cùng với những hoạt động đầu tư mạnh mẽ trên thế giới khiến cộng động xã hội quốc tế lẫn lộn hoàn toàn về những thực tế đang diễn ra trong chiến lược "Thiên triều" trên Thái Bình Dương.
- Thứ tư: Trung Cộng và Việt Nam có lịch sử lâu đời về xâm lược và đấu tranh chống xâm lược. Mặc dù các láng giềng khác cũng từng lâm vào hoàn cảnh như vậy, nhưng lịch sử với Việt Nam đã được Trung Cộng bóp méo hoàn toàn. Người dân Trung Cộng hoàn toàn hiểu biết sai lầm về lịch sử, đặc biệt là lịch sử cận đại và có tâm lý Đại Hán, muốn chinh phục một Việt Nam.
- Thứ năm: Những diễn biến gần đây cho thấy, Trung Cộng muốn thực hiện một đòn "Crimea" hóa kết hợp với bạo loạn và hỗn độn chính trị nhằm giảm tổn thất tối thiếu cho chiến lược đánh chiếm quần đảo, thống trị Biển Đông, làm bàn đạp mở rộng ảnh hưởng sang vùng nước Hoa Đông và vượt ra khỏi eo biển Malacca. Chiến dịch này được cho là có thể củng cố được tình hình nội bộ trong nước, tăng cường tình thần dân tộc "Đại Hán" trong quân đội và đại đa số cộng đồng xã hội, giải thích được khoản ngân sách quốc phòng vượt trội khủng khiếp và đẩy mạnh cuộc thanh lọc nội bộ, tiêu diệt tham quan.
Như vậy, theo logic sự kiện và những hành động mà Trung Cộng tiến hành gần đây cho thấy, nạn nhân đầu tiên của chính sách đối ngoại Đại Hán hiển nhiên sẽ là Việt Nam. Việt Nam, cũng như tất cả các nước láng giềng khác của Trung Cộng đều hiểu rất rõ điều này, ngoại trừ một trường hợp hết sức mong manh là Bắc Kinh phải đối đầu với nguy cơ đe dọa mới từ trong nước tương tự như "nhà nước Hồi giáo", rất khó xảy ra do thực tế khủng bố ở Tân Cương xảy ra với cấp độ rất nhỏ, chưa hình thành một tổ chức nguy hiểm có trang bị mạnh, an ninh nội địa và cảnh sát Trung Cộng dễ dàng khống chế và tiêu diệt. Ngay cả nguy cơ khủng bố cũng có thể dẫn đến tình huống Bắc Kinh sẽ nhẩy vào một cuộc phiên lưu quân sự mới nhằm củng cố tình hình nội bộ. Có thể nói, tiến trình thôn tính Biển Đông đang được thực hiện ráo riết với tốc độ cao.
Trung Cộng có thể gây áp lực cho Việt Nam như thế nào?
Tương quan lực lượng chênh lệch lớn, Việt Nam mua của Nga 4 chiến hạm Gepard 1166. 1, 2 chiếc đã được giao cho lực lượng hải quân, 6 tàu ngầm lớp Kilo 636. Việt Nam cũng đang đặt hàng mua từ Hà Lan 2 chiếc Sigma và đóng thêm 2 tàu Sigma nữa. Thực tế Gerpad và Sigma là những tàu hộ vệ tên lửa. Ngoài ra, Việt Nam đang tăng tốc đóng các tàu hộ tống và khinh hạm tên lửa dự án 1241 với số lượng khoảng 30 chiếc. Lực lượng dự bị động viên có thể tính đến các tàu Cảnh sát biển và Kiểm ngư, khi xảy ra chiến tranh sẽ được trang bị vũ khí. Với những chiến hạm này có thể thấy được sự thiếu hụt của hệ thống phòng không trên biển và số lượng so với hạm đội Nam Hải thực sự mỏng. Lực lượng không quân Việt Nam có khoảng 30 Su-27/30 và gần 300 máy bay chiến đấu thế hệ cũ như (MiG-21, Su-22). Máy bay trực thăng đa chủng loại khá nhiều, ngoại trừ một số trực thăng chống ngầm Ka – 27, còn lại hầu hết là máy bay vận tải. Lực lượng đông đảo và có sức mạnh chủ yếu nhất là hệ thống tên lửa chống tàu đa chủng loại có từ trước mà sức mạnh chính là các tổ hợp tên lửa "Bastions".
Xét từ góc độ chiến dịch chiến thuật, những phương tiện trang thiết bị hiện nay đủ đáp ứng nhu cầu bảo vệ vùng nước ven bờ, nhưng để bảo vệ các đảo xa và tạo sức mạnh bẻ gẫy ý đồ chiến lược của đối phương thì chưa đủ. Do cuộc chiến tranh hiện đại sẽ xử dụng rất nhiều vũ khí chính xác (tên lửa hành trình chống tàu, tên lửa đạn đạo mang đầu đạn nổ thường, bom có điều khiển) riêng Quân đội Trung Cộng có khoảng gần 2000 tên lửa hành trình các loại, khoảng trống trong hệ thống phòng thủ bảo vệ biển đảo Việt Nam là phòng không trên biển, trong khi đó các phương tiện tấn công đường không của Trung Cộng tương đối nhiều và đa chủng loại đươc sản xuất nội địa.
Việt Nam và Trung Quốc có chung một đường biên giới dài hàng trăm km và những tuyến biên giới khác, Trung Cộng cũng dễ dàng gây áp lực nghiêm trọng. Lực lượng Quân đội Trung Cộng dọc tuyến biên giới này rất lớn, thông thạo địa hình và có thể gây tổn thất nặng nề nếu cuộc chiến xảy ra từ hai hướng (tấn công xâm lược trên biển và công kích hỏa lực từ vùng đất liền biên giới). Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp và người dân Trung Cộng đã xâm nhập Việt Nam với số lượng lớn, nắm bắt rất kỹ tình hình kinh tế – chính trị Việt Nam, tình hình dân cư cũng như các mục tiêu cố định quan trọng có thể gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Đây cũng là một trong những vấn đề mà Bắc Kinh chuẩn bị cho một chiến dịch quy mô lớn nhằm giải quyết vấn đề Biển Đông và củng cố nội bộ đất nước. Hiện nay Việt Nam đang làm tất cả để ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, nhưng có được lâu hơn nữa hay không và lúc nào Trung Cộng sẽ khởi động cố máy khổng lồ của họ phục vụ cho mục đích bành trướng và tinh thần "Hán tộc", chỉ phụ thuộc vào tính toán nội bộ của cường quốc gần 1,4 tỷ dân này.
Cho đến nay, tính hình hỗn loạn trên thế giới, đặc biệt ở Ukraine, Syria và Iraq hoàn toàn thuận lợi cho chính sách đối ngoại của Bắc Kinh, Moscow đang bị phương Tây tấn công dữ dội bằng các đòn trừng phạt, đe dọa khủng bố và cách mạng sắc màu. Washington bị cuốn vào vòng xoáy hậu quả chính sách đối ngoại ở Trung Đông. Thế giới đang đứng trước nguy cơ lớn về "nhà nước Hồi giáo". Đồng thời, chiến dịch tuyên tuyền chống Việt Nam, bóp méo lịch sử và tăng cường tinh thần "giấc mơ Trung Quốc" vị trí "Thiên triều" cũng được đẩy mạnh trong nội bộ xã hội đại lục.

Gần đây quan hệ giữa Seoul và Bình Nhưỡng càng nồng ấm, thượng đỉnh Donald Trump- Kim Jong Un càng cận kề, Trung Cộng càng tăng tốc các hoạt động ngoại giao để giữ vai trò trung tâm trên hồ sơ phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên. 
Kim Jong-un cho rằng nếu được đảm bảo không bị tấn công, Bắc Hàn sẽ không "sống trong khó khăn với vũ khí hạt nhân".
Trong suốt thời gian từ 2003 đến 2009 Bắc Kinh đóng vai trò trọng yếu trong các vòng hòa đàm sáu bên về hạt nhân Bắc Hàn, Trung Cộng không ngừng kêu gọi Hoa Kỳ đối thoại trực tiếp với chế độ Bình Nhưỡng. Nhưng khi tổng thống Donald Trump thông báo sẽ họp thượng đỉnh với lãnh đạo Bắc Hàn, Kim Jong Un trong những tuần lễ sắp tới, và khi mà hai nguyên thủ Nam Hàn và Bắc Hàn ra tuyên bố chung cam kết "sẽ kết thúc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên", dường như bài toán của Bắc Kinh trở nên phức tạp hơn. Dấu hiệu rõ rệt nhất cho thấy là Trung Cộng đang gia tăng các hoạt động ngoại giao để duy trì ảnh hưởng với Bình Nhưỡng.
Lo ngại đầu tiên của Bắc Kinh liên quan đến mối quan hệ trong tương lai giữa Seoul và Bình Nhưỡng. Nhật báo Hồng Kông South China Morning Post trong ấn bản ngày 29/04/2018 trích dẫn một nguồn tin ngoại giao từ Seoul nêu lên khả năng Nam Hàn và Bắc Hàn đang có kế hoạch từng bước "pha loãng" ảnh hưởng của Trung Quốc.
Lợi dụng thời gian căng thẳng cúa tình hình thế giới trong những thời gian vừa qua, Trung Cộng đang đẩy mạnh những hành động trái phép như xây dựng đảo nhân tạo, khai triển các căn cứ, phi đạo quân sự trên các đảo chiếm được. Đây được coi là bước chuẩn bị đầu tiên cho chiến lược thống trị Biển Đông của Trung Cộng, bằng tất cả các lực lượng quân và dân sự kết hợp (tàu cá, giàn khoan, chiến hạm, đảo nhân tạo)…
Trung Cộng có 2 kế hoạch đã được xây dựng đến từng chi tiết nhằm hiện thực hóa âm mưu này: 

- Kế hoạch thứ nhất là từng bước chuẩn bị, đợi thời cơ. Khi đã chuẩn bị xong hạ tầng chiến lược (sân bay, căn cứ), Trung Cộng sẽ tạo cớ để tiến chiếm từng đảo nhỏ một, tiền đề cho một cuộc chinh phạt ít tốn kém và tổn thất hơn, nhưng lâu dài theo cách của năm 1988.
- Kế hoạch thứ hai là khi tình hình thế giới trở lên hỗn loạn hơn với những nguy cơ nóng bỏng, Trung Cộng tạo dựng cơ hội giàn khoan HD – 981 tiến hành các hoạt động vu cáo "dạy một bài học" và tung toàn bộ lực lượng Quân đội Trung Cộng để thực hiện trong một cuộc chiến tranh ngắn độc chiếm toàn bộ biển Đông, hiện thực hóa nhanh chóng "đường chín đoạn". Tổn thất đối với Quân đội Trung Cộng có thể rất lớn, nhưng cũng như năm 1979, đó không phải điều mà Bắc Kinh quan tâm, mà là mục tiêu đạt được. Kinh nghiệm của "Vạn lý trường chinh" đã thể hiện rất rõ tư tưởng này.
Nước Nga đang ở đâu trong thế trận Thái Bình Dương?
- Thứ nhất: Nếu như trước kia, Liên Xô có thể tiến hành những đòn phản kích mạnh buộc Trung Cộng phải lùi bước, không cần phải răn đe bằng vũ khí hạt nhân thì hiện nay, lực lượng vũ trang Nga đã thua sút rất nhiều trong khi đó
Chinese People's Liberation Army (PLA) đang phát triển vượt bậc với tốc độ lớn cả về vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh và năng lực tác chiến. Trong điều kiện thế giới hiện nay, là nước cung cấp năng lượng và thị trường cho Trung Cộng, Nga không phải là mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh, nhưng nếu xung đột xảy ra, vị thế của Nga trên trường thế giới sẽ suy giảm mạnh đến mức trở nên cô lập.
Trong bài phát biểu tại Đại hội 19, ông Tập Cận Bình xác định 3 mục tiêu cho Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA): Tới năm 2020, căn bản đạt được mục tiêu cơ giới hóa, có bước tiến triển rõ rệt trong việc xử dụng công nghệ thông tin và nâng cao khả năng chiến lược; Tới năm 2035, trở thành một lực lượng quân sự hiện đại; Tới 2050, trở thành đội quân hùng mạnh của một siêu cường thế giới.  
- Thứ hai: 25 năm trở lại đây, Nga đã trở thành thị trường lớn của Trung Cộng, đặc biệt là các sản phẩm tiêu dùng giá rẻ, sự phụ thuộc càng tăng hơn khi những dự án đầu tư Nga Trung thành hiện thực và dòng người lao động Trung Cộng ồ ạt chảy sang vùng đất Viễn Đông và Siberia. Đây chính là mầm mống cho sự bất ổn vùng biên giới Nga Trung và nguy cơ xung đột biên giới tương lai gần. Nếu Trung Cộng giải quyết được vấn đề Biển Đông, "con đường tơ lụa" trên biển sẽ thành công, Mỹ không đủ sức mạnh để ngăn cản Trung Cộng mà sẽ bắt tay như đã từng làm nhiều năm trước để bảo vệ lợi ích của mình. Vũ khí ngăn chặn bằng năng lượng và các dự án đầu tư chung phát triển Viễn Đông sẽ phản tác dụng, nước Nga đứng trước nguy cơ bành trướng dân di cư dưới sự yểm trở của Quân đội Trung Cộng hùng mạnh. Nếu chiến tranh biên giới xảy ra với sự thâm nhập của hàng trăm triệu dân nhập cư, nước Nga sẽ thất bại.
- Thứ ba: Thực tế là hiện nay, nước Nga đang là một nước dân chủ, không phải là "thành trì" Liên Xô trước đây, những chiến dịch chống Nga mà các nước lớn  (tất nhiên không loại trừ có bàn tay Bắc Kinh để hưởng lợi) và lực lượng khủng bố quốc tế tiến hành đang ở gia đoạn cao trào nhất. Vấn đề Ukraine và Syria không thể giải quyết trong giai đoạn ngắn (một vài năm) mà có thể kéo dài, thậm chí lan rộng ra từ Iraq, Libya đến châu Âu. Nước Nga nằm trong vòng vây của khủng bố quốc tế, chủ nghĩa bài Nga, dân tộc cực đoan, lực lượng thứ Năm và sự phụ thuộc kinh tế, hoàn toàn không thể phát huy được sức mạnh răn đe để giải quyết vấn đề thế giới, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh và bảo vệ những người bạn truyền thống của mình.
Nhưng hậu quả của biển Đông cũng có thể sẽ gây cho nước Nga những nguy cơ không kém gì vấn đề Libya, Syria hiện nay. Chính quyền Nga phải lựa chọn một giải pháp thích hợp nhất để gây ảnh hưởng lên biển Đông vì: là nước kế thừa của Liên bang Xô viết, đây chính là tuyến đầu của hệ thống phòng thủ cường quốc Nga và Liên minh Á – Âu nếu Nga là một cường quốc.

People watch national flag-raising ceremony to greet New Year in Beijing

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2018

PHONG TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN

Trong hình ảnh có thể có: 1 người, đang đứng và trong nhà

Phong tục thờ cúng tổ tiên hay còn gọi là Đạo Ông Bà là tục lệ thờ cúng những người đã chết, đặc biệt là tổ tiên, của nhiều dân tộc Châu Á và đặc biệt nhất là trong văn hóa Việtvăn hóa Tàu. Đối với người Việt, Phong tục thờ cúng tổ tiên gần như trở thành một tín ngưỡng; đa phần gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên trong nhà, có đặt di ảnh một cách trang trọng.

Thuở xa xưa, các bậc tiền nhân đã răng dạy con cháu, "ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây" hay "uống nước thì phải nhớ nguồn", làm con, cháu thì phải có hiếu với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Vì vậy, hàng ngàn năm qua, người Việt luôn lập bàn thờ gia tiên để tỏ lòng tôn kính cũng như biết ơn với tổ tiên, những người đã khai sinh ra dòng họ. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vì thế dần trở thành một "Đạo Hiếu" mà mọi gia đình, dòng họ người Việt đều phải noi theo, vì đó, là một tập tục tốt của nét văn hóa riêng của Đông phương mà thôi.

THỜ CÚNG TRONG GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ

Trên thực tế, thờ cúng tổ tiên không phải là điều bắt buộc, song đó lại là thứ “luật bất thành văn” trong đời sống tâm linh tồn tại qua bao thế hệ. Trong mỗi gia đình, bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất, là nơi con cháu khấn vái trong những ngày tuần, ngày giỗ, ngày tết, hoặc khi gia đình có hỷ (như cưới hỏi, tân gia hay khai trương, tạ ơn.v.v...), việc lớn, việc nhỏ với mong muốn được tổ tiên phù hộ. Mọi việc xảy ra trong gia đình đều được con cháu báo cáo với tổ tiên.
Sự thể hiện rõ nét nhất của tinh thần coi trọng "Đạo Hiếu" có hai ý nghĩa lớn:                                                                                                                                    
- Đó là quan niệm chữ hiếu đối với thế hệ đi trước qua các nghi lễ thờ cúng, thể hiện mong muốn ông bà tổ tiên có cuộc sống tốt ở thế giới bên kia, đồng thời con cháu mong muốn vong linh của tổ tiên phù hộ con cháu nơi cuộc sống phàm trần.                                                                                          - Ý nghĩa thứ hai là muốn giáo dục con cháu, những người đang sống thấm nhuần chữ hiếu với cha mẹ, ông bà, tố tiên yêu thương nhau trong tình máu mũ.

Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Bộ lư và hai chân đèn tượng trưng cho mặt Trời, mặt Trăng, hương là tinh tú. Hai bát nhang để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai bình hoa. Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và lư hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả, gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có các loại quả khác nhau, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để hai bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới...
Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt tại nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà lầu). Trên bàn thờ thì bày biện vật thờ cúng như: bát nhang, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố. Không thể thiếu trầm, hương, đèn, hoa quả, chén nước lạnh. Ngoài ra có thể có thêm mâm cỗ mặn. Sau khi tàn hai phần ba tuần nhang, thì có thể hạ lễ. Theo đạo Phật, con cháu nhớ tới ngày kỵ của người đã khuất mà cúng chay thì ông bà càng hưởng nhiều phước lộc, không bị đọa đày địa ngục, chóng được siêu thoát, ngược lại con cháu cậy có nhiều tiền của, giết nhiều súc vật cúng kèm với tiền vàng quần áo giả (đồ mã) thì ông bà càng đọa chìm trong địa ngục, mà con cháu không biết, cứ nghĩ là mình cúng ông bà mình nhiều quần áo, ô tô, tiền vàng là ông bà mình sung sướng lắm.
Theo quy định phẫm vật là trầm, hương, hoa, quả...Xưa kia, những nhà quyền quý có đủ thần chủ bốn đời để thờ, đó là cao, tằng, tổ, khảo. Thần chủ làm bằng gỗ táo, trên đó đề tên, họ, chức tước, ngày tháng sinh tử của tổ tiên. Nhà thường dân cũng có nhà dùng thần chủ, nhưng cũng có nhà dùng bộ ỷ ghi chép bằng tay để thờ. Vật dụng thờ tự được coi là những vật rất linh thiêng. Ngày nay, do nếp sống cũng như xã hội mới, những gia đình có bàn thờ cổ không còn nhiều. Bàn thờ nhiều khi chỉ gồm một bình hương nhỏ, khung ảnh thờ người quá cố và vài ba chén nước.
Với những gia đình có đạo, như đạo Phật, đạo Cao Đài, hay thậm chí là đạo Thiên Chúa thì trong nhà vẫn có gian thờ gia tiên cùng với gian thờ đấng tối cao của tôn giáo. Bàn thờ gia tiên được lập đầy đủ theo tập tục của mỗi tôn giáo. Trên áng cao nhất là thờ đấng tối cao của tôn giáo, phía dưới là ông bà, những người thân sinh trong dòng họ.
Đối với những người vừa mới mất thì không được thờ chung với tổ tiên mà được lập một bàn thờ riêng tại gian thờ; được bài trí theo điều kiện và lòng tôn kinh của gia chủ. Trong vòng 100 ngày (tính từ ngày an táng xong), người ta đều thắp hương cơm canh trước khi gia đình ăn cơm, mời người mới mất thụ hưởng. Sau 1 năm, bát nhang mới được rước lên bàn thờ tổ tiên, đặt ở hàng dưới.

CÚNG GIỖ MỖI NĂM MỘT LẦN

Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày mất (còn gọi là kỵ nhật) thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là ngày ta). Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng một (còn gọi là ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là ngày vọng), và các dịp lễ Tết khác trong một năm như: Tết Nguyên Đán, Tết Hàn thực, Tết Trung thu, Tết Trùng cửu, Tết Trùng thập... Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử... người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công. Tính chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế, nên việc cúng giỗ là thực hiện mối liên hệ giữa cõi dương và cõi âm.
Đây là một lễ vô cùng quan trọng, bởi nhớ đến ông bà tổ tiên là đã thể hiện lòng thành kính với vong linh người đã khuất, không phụ thuộc vào việc làm giỗ lớn hay nhỏ. Chỉ với chén nước, hoa quả, nhang đèn cũng giữ được đạo hiếu.
Trong việc thờ cúng tổ tiên thì ngày giỗ hay còn gọi là kỵ nhật rất quan trọng. Theo tục, con trai trưởng là người có trách nhiệm tổ chức, thường là ở nhà tổ, nơi đặt bàn thờ cúng tổ tiên. Đến ngày, con cháu trong dòng họ có trách nhiệm tề tựu về đây và cũng phải mang vật lễ cúng tới để giỗ. Trước ngày giỗ, trưởng nam làm lễ cáo với Thổ công để xin phép cho hương hồn người đã khuất được về chung hưởng bởi vì người ta cho rằng “đất có Thổ công, sông có Hà bá”, chỉ khi có phép của Thổ công thì hương hồn người đã khuất mới vào được trong nhà. Giỗ có thể làm lớn hay nhỏ tùy theo gia cảnh và nhiều khi cũng phụ thuộc vào quan hệ giữa người sống và người chết. Giỗ cha mẹ, ông bà thường làm lớn, giỗ anh em, chú bác cùng các vị cao tằng tổ khảo thường chỉ có cơm canh cúng đơn giản để thể hiện lòng thành kính.
Việc thắp hương trên bàn thờ bao giờ cũng phải thắp theo số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9, 11,... mà tránh thắp số chẵn như 2, 4, 6, 8, 10,... Người ta quan niệm rằng, số lẻ là dương nên nó phù hợp hơn với tổ tiên (người dương thắp cho người âm). Loại nhang thẳng gồm 2 phần: chân hương màu hồng đỏ, phần nhang có hương thơm. Có một loại hương vòng bao gồm nhiều vòng hương, có buộc dây, được đặt trên que sắt trong bình hương. Khi thắp hương, người ta phải để hương sao cho thật thẳng, tránh để hương bị nghiêng, xiêu đổ khiến đốm lửa giữa các nén hương không đều nhau, làm hương bị tắt lửa, hương tàn xuống có thể gây cháy những đồ lễ vật trên bàn thờ hoặc gây hỏa hoạn.
Khi thắp hương, nếu thắp 3 nén thì sau khi cắm nén thứ nhất (gọi là nén tâm), thì cắm nén thứ 2 bên tay trái (tức bên phải từ trong nhà nhìn ra, rồi cắm tiếp nén thứ 3 bên tay phải.

THỜ CÚNG VÀO DỊP TẾT

Tết cũng là một trong những ngày lễ lớn của dân tộc, nó mang ý nghĩa thiêng liêng, nhắc mọi người nhớ về nguồn cội. Ngày tết, con cháu khấn mời tổ tiên ông bà về ăn tết với gia đình, tạo nên không khí thiêng liêng, đầm ấm. Suốt 3 ngày tết, còn cháu đều dâng lễ, thờ cúng tổ tiên rất chu đáo. Mâm cơm cúng ngày Tết được tổ chức nấu nướng và bày biện công phu. Cúng lễ xong xuôi, mọi người trong gia đình, dòng họ quay quần bên nhau thụ lộc của tổ tiên và chúc nhau một năm mới vạn sự tốt lành.
Phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt là nét văn hóa dân gian thể hiện lòng tôn kính, là lời tri ân với những người đã khuất, là chữ hiếu của người còn sống. Đã bao thế kỷ trôi qua, tập tục này vẫn tiếp tục được duy trì và phát huy. Người Việt coi việc thờ phụng tổ tiên là một trong những nguyên tắc đạo làm người. Đó là hình thức thể hiện sự hiếu thuận và lòng biết ơn của con cháu đối với công ơn sinh thành dưỡng dục của tiền nhân, nhớ đến cội nguồn.

Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2018

NƯỚC LỚN CHIA NHAU QUYỀN LỢI, NƯỚC NHỎ CHỊU THIỆT THÒI

   Trong hình ảnh có thể có: ngoài trời
Phân tích về quan hệ của ba nước Mỹ, Trung Cộng và Việt Cộng cho thấy trong khi quan hệ của Hà Nội với Hoa Kỳ ngày càng cải thiện, đặc biệt là trên khía cạnh niềm tin chiến lược, trong lúc đó quan hệ Việt-Trung vẫn đang căng thẳng, niềm tin giảm sút, chủ yếu do vấn đề tranh chấp Biển Đông. Tuy xu hướng là như vậy, nhưng thực tế diễn tiến các quan hệ đó không mang tính bình lặng, mà có sự thăng trầm theo thời gian, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Do sự cạnh tranh chiến lược ngày càng gia tăng giữa Mỹ và Trung Cộng nên nhìn chung ở đây có sự tương tác qua lại giữa quan hệ. Mỹ – Trung như hai cực trái dấu, Việt Nam nằm ở giữa.
Dù Việt Nam muốn giữ cân bằng giữa hai bên, nhưng rõ ràng việc dịch lại gần một bên sẽ ảnh hưởng không tốt tới quan hệ với bên còn lại. Vì vậy, muốn duy trì sự cân bằng giữa Mỹ và Trung Cộng là một trong những thách thức lớn nhất về chính sách đối ngoại mà Việt Nam phải giải quyết trong thời gian tới.
- Ba dấu ấn quan trọng nhất về chính sách đối ngoại của Việt Cộng thời Đổi Mới là gì và có gì khác biệt so với trước thời điểm đó?
Chính sách Đổi Mới của Việt Cộng không chỉ dẫn tới những chuyển biến về kinh tế – xã hội, mà cả những thay đổi về chính sách đối ngoại, nhất là khi Việt Nam cần tận dụng các nguồn lực bên ngoài như thị trường, nguồn vốn, công nghệ… để phát triển kinh tế trong nước, qua đó đặt ra vấn đề phải cải thiện quan hệ đối ngoại nhằm thu hút tốt hơn các nguồn lực này.

* Ba điểm quan trọng nhất trong các thay đổi này gồm có:
- Thứ nhất, chính sách đối ngoại Việt Nam hiện tại thực dụng và ít dựa vào ý thức hệ hơn so với trước Đổi Mới. Điều này thể hiện rõ nhất qua lập trường cứng rắn hơn của Việt Cộng trong vấn đề Biển Đông và trong quan hệ với Trung Cộng, quốc gia có chung ý thức hệ, cũng như việc Việt Nam xích lại gần hơn với Hoa Kỳ bất chấp khác biệt chính trị.
- Thứ hai, Việt Nam giờ đây coi trọng ngoại giao kinh tế, chứ không chỉ tập trung vào khía cạnh chính trị, chiến lược như trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Điều này thể hiện qua quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu năng động của Việt Cộng 30 năm qua. Nó cũng phản ánh một quy luật là ưu tiên đối nội sẽ tác động tới chính sách đối ngoại, một điều chúng ta vẫn thấy rất phổ biến ở mọi nơi, kể cả trong chính sách đối ngoại của chính quyền Trump hiện nay.
- Thứ ba, ngoại giao Việt Nam ngày càng chuyển dịch mục tiêu trọng tâm từ bảo đảm môi trường hòa bình ổn định nhằm phục vụ mục đích phát triển kinh tế trong nước sang nâng cao vị thế, tạo ảnh hưởng quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này thể hiện qua sự tham gia tích cực của VC trong các diễn đàn, tổ chức quốc tế, hay việc VC đang nỗ lực đóng góp vào các chương trình gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Điều này sẽ đóng góp vào việc định vị tư cách Việt Nam như một cường quốc hạng trung quan trọng của khu vực.

* Vấn đề chính trong chính sách đối ngoại hiện nay của VC, giải quyết tranh chấp Biển Đông, Hà Nội đã làm được gì và chưa làm hoặc không thể làm được gì? Lý do?
Giải quyết tranh chấp Biển Đông là một thách thức khác trong chính sách đối ngoại hiện nay của VC. Phải thừa nhận rằng đây là một vấn đề vô cùng khó khăn vì VC phải đối đầu với một TC mạnh hơn nhiều lần về mọi mặt, lại đang trong thế đi lên, đặc biệt lại có chiều hướng thách thức trật tự khu vực hiện tại và muốn diễn dịch luật pháp quốc tế theo hướng có lợi cho mình.
Cho đến lúc này thì chính sách của VC đối với vấn đề Biển Đông đang đi đúng hướng. Có thể có người chỉ trích chính sách của Việt Nam quá mềm mỏng với Trung Cộng, như trong vụ Cá Rồng Đỏ. Lần thứ hai chỉ trong vòng một năm, Việt Nam phải hủy bỏ một dự án dầu khí quan trọng ở Biển Đông do áp lực từ Trung Cộng.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) yêu cầu hãng năng lượng của Tây Ban Nha, Repsol, ngưng một dự án ở khu vực ngoài khơi phía đông nam.
Điều này đồng nghĩa với việc Repsol và các đối tác có thể sẽ thiệt hại khoảng 200 triệu đô la đã đầu tư vào dự án.
Đây là tin không ai ngờ, bởi vì các công tác chuẩn bị cuối cùng cho việc khoan thương mại đã diễn ra.
Quyết định của Việt Nam dường như cho thấy sự phô trương sức mạnh của Hoa Kỳ tại Biển Đông trong thời gian gần đây đã không làm thay đổi các tính toán chiến lược của Việt Nam.
Hơn nữa, VC có thể làm được gì, khi phải đối đầu với một Trung Cộng vừa mạnh vừa hung hăng như thế? Xung đột vũ trang sẽ là một lựa chọn không khả thi.
Việt Nam đang cố gắng kiên trì, lúc cương lúc nhu tùy tình thế. Có những trường hợp Việt Nam mềm mỏng như trong vụ Cá Rồng Đỏ, nhưng có lúc cương quyết, cứng rắn, như trong vụ HD981.
Mục tiêu của Việt Nam là vừa bảo vệ lợi ích trên Biển Đông, vừa giữ được hòa bình, ổn định để phát triển, nên có lúc phải lùi một bước để tiến hai bước. Trong những bước tiến đó thời gian qua cũng là điểm nhấn quan trọng về vấn đề Việt Nam không ngừng tăng cường năng lực quân sự và chấp hành pháp luật đường biển, và gia tăng quan hệ quốc phòng, chiến lược với các cường quốc chủ chốt là với đối thủ cạnh tranh của Trung Cộng như Mỹ, Nhật, Ấn Độ.
Những kiểu đu dây hay đi hàng hai hoặc kéo co như của VC hiện tại được cho là đánh giá cao, nhưng thử hỏi kéo dài được bao lâu, so với quyền lợi mà các siêu cường đã tính toán, chia phần trên những nước nhược tiểu. Vả lại, VNCS và TC lại cùng ý thức hệ, lại là "anh em" môi hở răng lạnh, chuyện trong nhà thằng em không nghe lời, thằng anh dạy cho bài học là yên.
- Nhìn lại TC chiếm Hoàng Sa năm 1974, Mỹ bỏ rơi VNCH.
- Năm 1979 đàn anh TC dạy cho đàn em VC một bài học nhớ đời.
- Năm 1988, đàn em tuyệt đối không chống cự, giao đảo Gạc ma cho đàn anh
- Tháng 2 năm 1995, Trung Quốc điều bảy tàu đến đá Vành Khăn, bắt giữ và trục xuất các ngư dân Philippines tại đây. Sau đó nước này cho xây dựng trên những cột thép, đĩa vệ tinh và cắm cờ Trung Quốc. Mỹ cũng ngó lơ luôn...
- Malaysia, Brunei và Philippines đang bị áp lực từ phía Trung Quốc trong việc phải chấp nhận "khai thác chung" trong các khu vực mà theo Công ước Luật Biển của Liên hiệp quốc (UNCLOS) là hoàn toàn thuộc quyền của các nước đó.
Cho đến nay, toàn bộ các quốc gia Đông Nam Á đều chống lại áp lực này.
Việt Nam đã chọn phát triển các mỏ khí một mình, và kết quả là đã bị Trung Quốc đe dọa về quân sự.
Nay, với việc lần thứ hai Hà Nội phải xuống thang, người ta đang đặt câu hỏi về khả năng khai thác ngoài khơi của Việt Nam.
Giờ đây người ta sẽ đồn đoán về số phận của dự án khí Cá Voi Xanh của Exxon Mobil ở ngoài khơi miền Trung Việt Nam.
Tuy nhiên, dự án này nằm gần bờ hơn và do đó có thể sẽ không khiến cho Trung Quốc tức giận.