Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Pháp đã mất quyền kiểm soát tại Đông Dương là thuộc địa của Pháp và quyền này rơi vào tay người Nhật vào năm 1941. Tuy nhiên, người Nhật vẫn giữ lại những quan chức Pháp và chỉ điều khiển sau hậu trường.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, khi tình hình chiến tranh Thái Bình Dương thay đổi bất lợi, Nhật đổi chính sách và đảo chính Pháp, bắt giam các tướng lãnh và tước khí giới của quân đội Pháp ở Đông Dương. Đại sứ Nhật ở Đông Dương là Matsumoto Shunichi, giao cho đại diện Pháp là Toàn quyền Đông Dương, Đô đốc Jean Decoux tối hậu thư đòi người Pháp phải chấp nhận vô điều kiện, quyền chỉ huy của Nhật trên mọi phương diện. Ở Huế đại úy Kanebo Noburu vào báo cáo với vua Bảo Đại quyền lực của Pháp đã chấm dứt.
Sau cuộc đột kích bất ngờ vào quân Pháp đêm 9-3-1945, vấn đề quan trọng nhất đối với quân Nhật là duy trì bằng được "trật tự và ổn định" nhằm tìm nguồn cung ứng vật chất tại chỗ cho gần 100.000 lính Nhật, cũng như để cung cấp cho việc phòng thủ nước Nhật trước đà tấn công của quân Đồng Minh. Tuy nhiên, đúng lúc đó, bộ máy hành chính thực dân mà Nhật kế thừa từ Pháp đã tan rã, vì thế việc thành lập bộ máy cai trị bản xứ đặt ra như một đòi hỏi cấp bách và Quốc gia Việt Nam ra đời trong bối cảnh đó.
Sáng 10-3-1945, trên đường đi săn, Bảo Đại bị một toán quân Nhật giữ lại và hôm sau đưa về kinh thành, Ngày 11-3-1945, vua Bảo Đại gặp mặt cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama Masayuki tại điện Kiến Trung để ký bản Tuyên cáo Việt Nam độc lập. Cùng đi với Yokoyama Masayukilà tổng lãnhsự Konagaya Akira và lãnh sự Watanabe Taizo. Bản tuyên ngôn đó có chữ ký của sáu vị thượng thư trong Cơ mật Viện là Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Ưng Úy, Bùi Bằng Đoàn, Trần Thanh Đạt, và Trương Như Đính, nguyên văn chiếu chỉ đề ngày 27 Tháng Giêng âm lịch, năm thứ 20 niên hiệu Bảo Đại:
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Qua sự hưởng ứng của người Việt, cùng các dân tộc Á châu khác đang bị Nhật chiếm đóng, Nhật quyết định trao trả độc lập cho Việt Nam.
Hoàng đế Bảo Đại vào ngày 11-3-1945 đã ký đạo dụ "Tuyên bố Việt Nam độc lập", khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất ba miền Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ
Ngay sau đó, vào ngày 11-3-1945, vua Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên Bố Việt Nam độc lập", đồng thời hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 cùng các hiệp ước nhận bảo hộ và từ bỏ chủ quyền khác, khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đây là thời điểm đáng lưu ý.Ngày 7-4-1945, vua Bảo Đại chuẩn y thành phần nội các mới, trong đó học giả Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của một nước Việt Nam độc lập. Tháng 6/1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Quốc gia Việt Nam.
Đến khi Nhật đầu hàng phe Đồng minh, Thủ tướng Trần Trọng Kim vào ngày 16/8/1945 khẳng định bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Sau đó, vào ngày 18/8/1945, vua Bảo Đại tái xác nhận nền độc lập của Việt Nam đã công bố vào ngày 11/3/1945.
Đến khi Nhật đầu hàng phe Đồng minh, Thủ tướng Trần Trọng Kim vào ngày 16/8/1945 khẳng định bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Sau đó, vào ngày 18/8/1945, vua Bảo Đại tái xác nhận nền độc lập của Việt Nam đã công bố vào ngày 11/3/1945.
Cần lưu ý, tuy là một chính quyền thực tế và chính danh từ tháng 3/1945, nhưng Quốc Gia Việt Nam không đủ lực lượng quân sự để kiểm soát tình hình. Đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn về chính trị.
Nội các Trần Trọng Kim (báo Trung Bắc Chủ Nhật 20/5/1945, Thư viện Quốc gia Pháp)
Lợi dụng thời cơ Cướp Chính Quyền:
Nhiều tổ chức và đảng phái hình thành trước đó đã tranh thủ thế đứng chính trị riêng trước vận hội mới của Việt Nam, trong đó Việt Minh dường như là lực lượng được tổ chức hoàn bị hơn, khả dĩ tranh giành quyền lực vượt trội, so với các đảng phái Yêu nước khác trong thời bấy giờ.
Từ ngày 19-8-1945 tại các địa phương trên cả nước, Việt Minh tiến hành đảo chính cướp chính quyền, buộc nhà nước Quốc gia Việt Nam chuyển giao quyền lực, một sự kiện mà sau đó được gọi là “Cách mạng tháng Tám”.
Trước tình thế đó, vua Bảo Đại quyết định thoái vị và giải tán chính phủ Trần Trọng Kim. Dù tồn tại không bao lâu và phải dung hòa ảnh hưởng của các thế lực quốc tế cùng chủ thuyết Đại Đông Á của Nhật, nội các Trần Trọng Kim đã cố gắng đặt nền móng xây dựng một thể chế chính trị độc lập và mang đến niềm hy vọng về nền tự chủ đầu tiên cho Việt Nam sau thời gian dài bị Pháp đô hộ.
Ngày 2/9/1945, chớp thời cơ về một khoảng trống quyền lực và sự yếu kém của các đảng phái chính trị khác tại Việt Nam khi ấy như:
– Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn thái Học.
– Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội của Nguyễn hải Thần.
– Đại Việt Phục hưng Hội của Ngô đình Diệm.
– Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng của Lý đông A.
– Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng của Hồ văn Ngà.
– Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng của Huỳnh phú Sổ.
Sau khi cướp chính quyền Quốc Gia Việt Nam, đại diện Việt Minh là ông Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trong một buổi lễ long trọng tại Hà Nội, và sau đó tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sơ lược lại một giai đoạn lịch sử đầy biến động như trên để thấy rằng, nhiều điều bấy lâu nay bộ máy tuyên truyền và giới sử gia nô, mặc định là đương nhiên đúng.! rất cần xem xét lại một cách công tâm, chẳng hạn nội các Trần Trọng Kim có thật là “bù nhìn” không? và ngày 2-9-1945 phải chăng là ngày độc lập trên phương diện thực tế và pháp lý?
Như đã nói trên, sau khi bị quân đội Nhật đảo chính tại Đông Dương, nước Pháp trên thực tế đã đánh mất quyền kiểm soát về chính trị và quân sự ở các nước này, dù họ chưa bao giờ muốn từ bỏ thuộc địa béo bở như thế.
Chân lý thuộc kẻ mạnh:
Xét về phương diện thực tế và pháp lý, Việt Nam đã thực sự độc lập từ ngày 11/3/1945
Với tư cách là một đại diện chính danh và hợp pháp của một chính quyền đã và đang cai trị đất nước liên tục từ năm 1802, vua Bảo Đại ngay lập tức tuyên cáo Việt Nam độc lập.
Ông đã thủ giữ vai trò đại diện đương nhiên của quốc dân và quốc gia trong sự chuyển tiếp từ thể chế chính trị cũ sang thể chế mới, mà không một nhân vật chính trị nào đương thời hội đủ tư cách thay thế được. Do đó, xét về phương diện thực tế và pháp lý, Việt Nam đã thực sự độc lập từ ngày 11-3-1945.
Vậy không lý gì đến ngày 2-9-1945 người ta lại cần tuyên bố độc lập một lần nữa, mà người tuyên bố đơn thuần chỉ là thủ lĩnh của một phong trào chính trị, dù là mạnh nhất trong số nhiều tổ chức và đảng phái khác nhau cùng tồn tại khi ấy, và người đó cũng chưa bao giờ được quốc dân lựa chọn hoặc công nhận, dù mặc nhiên hay bằng một thủ tục hợp pháp, là đại diện chính danh của quốc gia tính đến thời điểm ấy.
Cần lưu ý, trước thời điểm 2-9-1945 danh tính Hồ Chí Minh chưa từng được biết đến rộng rãi như một nhân vật chính trị có uy tín, còn Nguyễn Ái Quốc chỉ nổi danh như một trong các nhà cách mạng đương thời tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam mà thôi.
Hai tên ấy của một con người vốn luôn thích bí ẩn, dù về sau có nổi tiếng, vẫn chưa đủ mang đến cho ông tư cách chính danh và hợp pháp vào lúc đó để có thể đứng ra đại diện tuyên bố độc lập cho quốc gia.
Tất nhiên, chân lý thuộc về kẻ mạnh, nên khi thắng cuộc người ta có thể diễn giải mọi sự kiện lịch sử theo ý riêng của mình, rằng ngày 2-9-1945, chứ không phải ngày 11-3-1945, trở thành ngày độc lập của nước Việt Nam.
Tuy nhiên, với người con dân Việt Nam đã học và tìm hiểu lịch sử của đất nước qua hai chế độ; nếu đọc sử một cách khách quan, không lệ thuộc vào ý thức hệ, chúng ta sẽ so sánh, phân tích và nhận định thực chất của vấn đề, đúng sai thật hư như thế nào.! "Bác bỏ" hay "Chấp nhận" lối tường thuật và nhận định lịch sử theo hướng "Bóp Méo" vì "Mục đích Chính trị" như vậy.
Cho nên, nếu gọi 2-9-1945 là ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn có thể đồng ý, nhưng nếu áp đặt đấy là ngày độc lập thì dứt khoát không đúng, bởi vì chúng ta đã nhận định qua nhiều tài liệu, nên chỉ có ngày 11-3-1945 khi vua Bảo Đại tuyên bố "Việt Nam Độc Lập" mà thôi.