Thứ Năm, 13 tháng 4, 2017

NHỮNG HÌNH ẢNH XƯA CỦA NỀN GIÁO DỤC NƯỚC TA


Dân tộc ta vốn "tôn sư trọng đạo",dưới chính thể nào cũng vậy. Vai trò thầy giáo luôn luôn tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, tiên tiến được xã hội công nhận... Nghề giáo vốn là nghề cao quý nhất...Nền giáo dục thời phong kiến cũng như thời dân chủ đều thống nhất một phương châm "tiên học lễ hậu học văn" nhà trường gắn liền với gia đình, xã hội. Nhân tài phục vụ xã hội, điều hành bộ máy chính quyền đều được "ông thầy"tức là khuôn mẫu,đào tạo nên,"không thầy đố mày làm nên hay "nhất tự vi sư, bán tự vi sư ". Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức đều thống nhất dựa vào chế độ thi cử, có học vị, cấp bậc rõ ràng.

Trong suốt thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 19, nền giáo dục của nước ta đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho học từ Trung Quốc. Chữ Nho được dùng như loại chữ chính thống trong nhà trường, cũng như thi cử, cho mãi tới khi Pháp đô hộ nước ta.
Vào thời kỳ này, duy nhất chỉ có đàn ông được làm thầy giáo và được gọi là thầy đồ. Họ là những nhà Nho có học vấn uyên thâm, có đỗ đạt hoặc không, nhưng tựu trung đều yêu thích nghiệp "gõ đầu trẻ". 
Yêu cầu đối với thầy đồ là vô cùng khắt khe, quy củ: Họ là người phải có cuộc sống đạo đức, gương mẫu, được môn sinh và dân chúng địa phương kính trọng hết mực. 
Có điều đặc biệt là mỗi môn sinh vào thời đó chỉ có duy nhất một thầy mà thôi. Thầy đồ đóng vai trò rất lớn trong việc nuôi dạy một con người, cả về học thức lẫn lễ giáo. 
Có lẽ vì thế mà người xưa đã từng tôn xưng: "Quân, Sư, Phụ", có nghĩa là trước phải kính vua, sau là thầy và thứ ba là cha.
Cha mẹ muốn con mình theo học thầy đồ đều chuẩn bị, sắm sửa lễ vật cho đúng với lễ giáo, quy tắc của đạo Nho. Lễ vật bao gồm: cau, trầu, rượu, hương, đèn, xôi, gà để làm lễ trước bàn thờ Khổng Tử rồi mới được nhận vào học.
Chương trình học tập được chia làm 4 cấp Ấu học, Sơ học, Trung học, Cao học. Đối với học sinh thời đó: Tam tự kinh, Tứ thư, Ngũ kinh được coi là những cuốn sách gối đầu giường từ thuở còn tấm bé cho tới khi trưởng thành.
Tam tự kinh là cuốn sách dạy vỡ lòng cho trẻ con mới bắt đầu đi học. Sách gồm những câu ngắn gọn đơn giản, chỉ có 3 chữ để dễ học.
Nội dung sách bao gồm nhiều lĩnh vực, từ đạo đức, cuộc sống cho tới địa lý, lịch sử được nhà Nho Vương Ứng Lân người Trung Quốc biên soạn vào đời nhà Tống (năm 960 - 1279).
Tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt, các cuộc thi đều được diễn ra từ cấp vùng cho tới cả nước. Ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, để tuyển chọn người tài phục vụ đất nước. Các kỳ thi diễn ra định kỳ 3 năm một lần và đồng loạt trên cả nước. Thí sinh tập trung tại trường thi, thường là ở các tỉnh lớn, trong một khu đất rộng, bằng phẳng hàng trăm mẫu. 
Số lượng thí sinh thường rất đông, như kỳ thi Hương năm 1894, có tới 11.000 học trò từ khắp nơi về dự thi tại trường thi ở Nam Định.

Đóng vai người Việt cổ đi học thời xưa 12
Trường đại học đầu tiên của nước ta chính là Quốc Tử Giám ở Hà Nội,  được xây dựng vào năm 1076, thuộc đời nhà Lý. Người đầu tiên giữ chức Tu nghiệp Quốc Tử Giám chính là thầy đồ, nhà nho nổi tiếng Chu Văn An.


Ngược dòng lịch sử, chúng ta tìm hiểu đôi chút về nền khoa cử Việt Nam thời xưa:

Nói đến chế độ khoa cử ở nước ta thì phải tính đến một chặng đường dài mười thế kỷ (thứ XI đến XX) đã diễn ra dưới thời phong kiến mà khoa mở đầu là năm Ất Mão (1075) đời Lý và khoa kết thúc vào năm Kỷ Mùi (1919) đời Khải Định

Khoa cử thời phong kiến gồm ba kỳ thi quan trọng bậc nhất được coi như ba cửa ải lớn để bước tới các bậc thang quan chức đầy danh vọng của các nho sĩ. Đó là thi Hương( Hương thí), thi Hội(Hội thí) và thi Đình(Đình thí).


1. THI HƯƠNG
Cuộc thi được tổ chức tại các trường nhiều nơi (từ Hương do nghĩa khu vực quê hương của người thi). Nhưng không phải tỉnh nào cũng được tổ chức thi Hương. Trường thi chia ra làm nhiều vùng. Ba bốn trấn hoặc tỉnh cùng thi ở một nơi, thí dụ trường Nam là tập trung thí sinh ở các tỉnh chung quanh Nam Địnhtrường Hà các tỉnh chung quanh Hà Nội v.v. Số thí sinh mỗi khoa có đến hàng nghìn người.
Theo quy định từ năm 1434, thi Hương có 4 kỳ.

– Kỳ I: Kinh nghĩa, thư nghĩa;(hỏi ý nghiã trong Tứ thư, Ngũ kinh để xem học                lực có thâm viễn)
– Kỳ II: Chiếu (là lời vua ban cho thần dân hiểu biết hiệu lệnh), 
            Chế (là lời vua ban khen), 
            Biểu (là lời thần dân bầy tỏ lên vua điều gì hay chúc mừng)
– Kỳ III: Thơ phú; (để thử tài ứng đối)
– Kỳ IV: Văn sách.(hỏi thuật trị nước cổ (Nghiêu, Thuấn) và kim (thời vụ, kinh                tế) để xét kiến thức)


Thi qua 3 kỳ thì đỗ Tú Tài (trước 1828 gọi là Sinh đồ) - tên dân gian là ông Đồ, ông Tú. Thường mỗi khoa đỗ 72 người. Tuy có tiếng thi đỗ nhưng thường không được bổ dụng. Nhiều người thi đi thi lại nhiều lần để cố đạt cho được học vị Cử nhân. Lần thứ nhất đỗ gọi là "ông Tú", lần thứ hai vẫn đỗ Tú tài thì gọi là "ông Kép", lần thứ 3 vẫn thế thì gọi là "ông Mền".

Thi qua cả 4 kỳ thì đỗ Cử Nhân (trước 1828 gọi là Hương cống) - ông Cống, ông Cử. Mỗi khoa đỗ 32 người, được bổ dụng làm quan ở các cơ quan cấp tỉnh, cấp trung ương, hoặc được đi làm quan các huyện, sau dần dần mới lên các chức vụ cao hơn.

Người đỗ đầu gọi là Giải Nguyên.

2.THI HỘI
Thi Hội là khoa thi 3 năm một lần ở cấp trung ương do bộ Lễ tổ chức. Từ đời Lê Thánh Tông thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất (dựa theo quy định thi cử của Trung Quốc). Khoa thi này được gọi là "Hội thi cử nhân" hoặc "Hội thi cống sĩ" (các cử nhân, cống sĩ, tức là người đã đỗ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội.

Trước năm 1442 thí sinh đỗ cả 4 kỳ được công nhận là trúng cách thi Hội, nhưng không có học vị gì. Nếu không tiếp tục thi Đình thì vẫn chỉ có học vị hương cống hoặc cử nhân. Chỉ sau khi thi Đình, người trúng cách thi Hội mới được xếp loại đỗ và mới được công nhận là có học vị các loại tiến sĩ. Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến sĩ (tức Thái học sinh - tên dân gian là ông Nghè).

Người đỗ đầu gọi là Hội Nguyên.

3.THI ĐÌNH
Kỳ thi cao nhất là thi Đình tổ chức tại sân đình nhà vua. Nơi thi là một cái nghè lớn, nên sau này người ta thường gọi các vị vào thi là các ông nghè. Nhà vua trực tiếp ra đề thi, và sau khi hội đồng giám khảo hoàn thành việc chấm bài, cân nhắc điểm sổ, chính nhà vua tự tay phê lấy đỗ.

Người đỗ đầu gọi là Đình Nguyên.

Theo số điểm, người đỗ được xếp vào 3 hạng gọi là Tam Giáp:

  • Bậc 3: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Tam Giáp (Đồng tiến sĩ xuất thân - tên dân gian là ông Tiến Sĩ)
  • Bậc 2: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Nhị Giáp (Tiến sĩ xuất thân, Hoàng Giáp - ông Hoàng)
  • Bậc 1: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Nhất Giáp (Tiến sĩ cập đệ - gồm 3 thí sinh đỗ cao nhất gọi là Tam khôi: Đỗ hạng ba là Thám Hoa(ông Thám), hạng nhì là Bảng Nhãn (ông Bảng), đỗ đầu là Trạng Nguyên (ông Trạng)
Trong nhiều thế kỷ, dân ta chỉ dựa trên nền triết lý Khổng Mạnh để giáo dục, tổ chức gia đình và xã hội theo sách thánh hiền, học hành thi cử theo lối từ chương, thìếu tính chất khoa học và tất cả đều dựa trên chữ nghĩa...xử dụng chữ nho trong giảng dạy và thi cử... 
Nhưng trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nước ta, ngôn ngữ giảng dạy trong các trường học chuyển thành chữ quốc ngữ và Pháp ngữ, cùng với sự cải cách quan trọng nhất trong nền giáo dục, họ đã áp dụng các bộ môn khoa học trong chương trình cho các cấp từ tiểu học đến đại học...cho mãi về sau nầy có thêm nhiều nền văn hóa văn minh của các nước trên thế giới.v.v... 

 vietlist.us
                                        Thầy đồ và học trò 



Thầy đồ không chỉ thông hiểu chữ nghĩa, mà còn là người hiểu biết rộng và được tôn trọng trong xã hội. Vào thời kỳ này, chỉ có duy nhất đàn ông được trở thành thầy đồ. 


vietlist.us

Trường không do triều đình mở ra mà được dựng ngay trong khuôn viên nhà thầy giáo hoặc trong các đình làng, tùy vào hoàn cảnh mỗi nơi. 

    
Từ thời Lê (1428 – 1528), đã đặt ra ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình để tuyển chọn người tài phục vụ đất nước. Các kỳ thi diễn ra 3 năm 1 lần

  
Thể thức thi cử tập trung và nghiêm ngặt, các cuộc thi đều được diễn ra từ cấp vùng cho tới cả nước.
  
               Quang cảnh trường thi ở Nam Định, khoa thi năm Nhâm Tý (1912)

 
Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nước ta, ngôn ngữ giảng dạy trong các trường học chuyển thành chữ quốc ngữ


                                        Lớp học tiếng Pháp

vietlist.us
                                                  Trường tỉnh

vietlist.us
                                  Học trò của một trường trung học

vietlist.us
                                         Một lớp học môn toán

vietlist.us
                                                       Một lớp cơ thể học

vietlist.us
                                                  Giờ hóa học

vietlist.us
                                                   Giờ học vạn vật 

vietlist.us
                                            Giờ thể thao trường làng

vietlist.us
                                                   Giờ lịch sử 

vietlist.us
                                         Giờ thể thao trường tỉnh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét