Thứ Tư, 9 tháng 9, 2015

HOUSTON, TEXAS




Houston là thành phố lớn hàng thứ 4 nước Mỹ sau Newyork, Los Angeles và Chicago. Houston là thành phố trung tâm trực thuộc Harris County. Dân số Houston khoảng 2 triệu người ( in City limit ) nếu tính cả vùng phụ cận thuộc quận hạt Harris thì khoảng 4 triệu người. Chúng ta nhận thấy nước Mỹ có khác lạ hơn 1 số nước là có nhiều thành phố lớn, lớn hơn cả thủ đô, như thủ phủ Texas là Austin rộng lớn là thế nhưng vẫn nhỏ so với Houston hay Sacramento là thủ phủ của Cali nhưng cũng là bé tí so với Los Angeles...Người Việt ở Houston khoảng trên dưới 100.000 người sống rải rát, nơi tập trung khá đông là vùng South West của Houston, nơi đây cũng được coi là China town vì cũng có khá đông người Tàu kinh doanh và sinh sống...

Trung Tâm Houston hay còn gọi là Downtown Houston



Houston là thành phố lớn nhất của tiểu bang Texas và là thành phố lớn thứ tư của Hoa Kỳ. Thành phố này có diện tích hơn 1.600 km² (600 dặm vuông) thuộc Quận Harris, đông dân thứ ba ở nước Mỹ. Với dân số trên 2 triệu người (2005). Thành phố này nằm tại trung tâm của khu đô thị Houston – Sugar Land – Baytown, là trung tâm văn hóa, kinh tế lớn nhất vùng Vịnh Mexico, cũng là khu đô thị lớn thứ 7 của Hoa Kỳ với 5,3 triệu dân trong 10 quận.


634862610252600000 Thông tin về thành phố Houston (tiểu bang Texas)

Houston nổi tiếng thế giới với công nghiệp năng lượng (chủ yếu là dầu hỏa)  kỹ nghệ không gian và kênh đào cho tàu thủy qua lại. Cảng Houston là cảng lớn thứ sáu trên thế giới về lưu lượng hàng hóa quốc tê Theo Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 2000, số người Mỹ gốc Việt ở Houston là 32.261 người, chiếm 1,7% dân số toàn thành phố. Chính quyền địa phương đã chính thức đặt tên “Little Saigon” cho khu tập trung nhiều cơ sở thương mại Việt Nam ở trung tâm thành phố Houston vào ngày 2 tháng 5 năm 2004. Khu vục này là khu Midtown, nằm cạnh khu Downtown giữa thành phố. Một nơi khác có nhiều cơ sở thương mại của người Mỹ gốc Việt là khu vực mới phát triển quanh Đại lộ Bellaire ở Tây Nam thành phố.
Khí hậu Houston được liệt kê như là cận nhiệt đới ẩm. Lượng mưa trung bình hàng năm là khoảng 48 inch (1.220 mm). Nhiệt độ nóng nhất được ghi nhận ở Houston là 109°F (43°C) vào ngày 4 tháng 9 năm2000. Mùa đông ở Houston mát mẻ và ôn hòa. Trong khi trung bình, mức cao vào tháng một, tháng lạnh nhất, là 61°F (16°C), Houston trung bình có 18 ngày một năm với nhiệt độ 32°F (0°C) hay thấp hơn. Tuyết không bao giờ nghe nói đến, 
634862610268230000 Thông tin về thành phố Houston (tiểu bang Texas)
Tòa nhà hội đồng thành phố Houston
Houston là nơi tọa lạc của khu Trung tâm Y khoa Texas (Texas Medical Center) nổi tiếng thế giới, bao gồm sự tập trung đông đảo nhất của các học viện nghiên cứu và chăm sóc sức khỏe. Có 42 viện là thành viên của Trung tâm y khoa Texas, tất cả đều là tổ chức bất vụ lợi, có những tiêu chuẩn cao nhất của việc chăm sóc bệnh nhân và phòng bệnh, nghiên cứu, giáo dục và sức khỏe của cộng đồng địa phương, toàn quốc và quốc tế. Những viện này bao gồm 13 bệnh viện nổi tiếng và viện đặc biệt, hai trường y khoa, bốn trường y tá và các trường nha khoa, y tế cộng đồng, dược và hầu hết các ngành khác có liên quan đến chăm sóc sức khỏe. Đây là một trong những nơi đầu tiên và vẫn là nơi lớn nhất, dịch vụ cấp cứu hàng không được tạo ra, một chương trình transplant trao đổi giữa các bệnh viện được phát triển rất thành công. Thêm vào đó, nhiều phẫu thuật tim được tiến hành ở Trung tâmY khoa Texas hơn bất cứ một nơi nào trên thế giới.
 Thông tin về thành phố Houston (tiểu bang Texas)
Tàu điện ngầm ở Houston (phần chạy nổi trên mặt đất)
Houston có hệ thống Đại học Houston, là hệ thống đại học nội thành lớn nhất trong vùng Vịnh với trên 56.000 học sinh. Hệ thống này có 4 đại học – 3 nằm trong thành phố Houston – và hai khu trung tâm giảng dạy nhiều trường gộp lại. Đại học đầu đàn là Đại học Houston (UH), lớn thứ 3 của Texas với số học sinh ghi danh hơn 35.000.Trên 40 trung tâm và viện nghiên cứu.  Houston Community College System là một trong những hệ thống cao đẳng cộng đồng lớn nhất Hoa Kỳ.
Theo U.S media, thành phố Houston được một tạp chí sức khoẻ hàng đầu liệt vào danh sách những thành phố có nhiều người mập nhất thế giới với 34% dân số bị béo phì. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do cái nóng mùa hè và những chặng đường dài đi làm khiến mọi người trong thành phố trở nên lười biếng. Houston cũng được đánh giá là thành phố số 1 về đồ ăn nhanh với hơn 1000 cửa hàng .

Người Việt ở Houston

image

Nói chung, vật giá ở Houston rẻ hơn những nơi khác,công ăn việc làm nhiều, rất dễ sống.Những năm về trước, khi kinh tế còn phồn thịnh, phải nói mức thu nhập mọi người rất cao... 

Sau đây chỉ "khái lược" một vài khía cạnh mắt thấy tai nghe về cộng đồng người Việt đang sinh sống ở Houston, để có thể hình dung một cách khái quát về những sinh hoạt thương mại của người Việt, trên đất nước tạm dung.

image

Houston là một vùng đất tập trung người Việt Nam nhiều thứ hai ở Mỹ sau California. Nhờ địa hình, đất đai rộng lớn chưa khai phá hết, nên so với California thì đất đai ở đây phải nói là rẻ mạt, do đó vấn đề nhà cửa, nơi ăn chốn ở, không phải là mối lo của mọi người. Vì đất rẻ, nên nhà cửa ở đây vừa túi tiền cho bất cứ ai, từ giàu tới nghèo. Người mới qua khi đã ổn định hay lớn tuổi thu nhập thấp; Bạn vẫn có thể mua một căn chung cư khiêm tốn vài ba phòng ngủ che nắng che mưa, với giá chỉ hai hoặc ba chục ngàn đô la, hoặc ít hơn.

Nếu bạn khá giả, có tiền thì càng dễ, những căn nhà sang trọng hơn, từ vài ba trăm ngàn tới vài triệu đô la cũng không thiếu, từ thấp lên cao, đều có đủ để phục vụ nhu cầu của bạn (không đẹp không ăn tiền).
Ở đây người Việt đùm bọc nhau, có những khu chung cư chỉ toàn người Việt sinh sống, như làng Thái Xuân, làng Tre... Ở đó mỗi căn giá chỉ có vài ngàn tới không quá 20 ngàn, như những xóm nhỏ ở Việt Nam, có dịch vụ cơm tháng, cắt tóc, thợ may, đau yếu có nhân viên tiệm thuốc đem tới tận nhà.

image

Có nhiều hội bô lão có trụ sở, giúp người già họp mặt giải trí, hoặc tổ chức đi tham quan du ngoạn, cung cấp những bữa ăn miễn phí, cố vấn về y tế, sức khoẻ... Có nhiều chương trình, công ty phục vụ y tế tại gia do người Việt làm chủ, tới tận nhà để chăm sóc giúp đỡ các cụ già cô đơn... 
Dù tất bật làm ăn, buôn bán xa gần, nhưng cuối tuần ai cũng tụ về trung tâm người Việt để đi chợ mua sắm, ăn uống, gặp gỡ, chuyện trò, vui vẻ trong tình cảm đồng hương xa quê nhà.


Nếu cuối tuần rảnh không làm gì, thì bạn hãy ghé vào Lee's sandwiches làm một ly cafe, ngồi nhâm nhi một lát, bảo đảm, bạn sẽ gặp không ít những bạn bè quen, vẫy tay chào hỏi thân tình, hoặc xà lại ngồi chung, tán chuyện thập cẩm cho vui.

Các cụ ông thì tụ lại đánh cờ, có ông nhíu mày, nhăn mặt, trông suy tư, động não ra phết. Còn các cụ bà thì cùng con cái đi chợ, đi ăn, hoặc muốn thì đi chùa, làm công quả. Vui với bạn già, thanh thản trong sự thanh tịnh của nhà chùa. Tới chiều hoặc theo giờ hẹn,con cái sẽ tới đón các cụ ông,cụ bà,cùng về.
Ở chùa, hoặc nhà thờ cũng có mở nhiều lớp dạy tiếng Việt, nên vào cuối tuần trẻ em cũng hay được cha mẹ gởi tới chùa và nhà thờ để sinh hoạt tôn giáo và học tiếng Việt 

image

Còn người chết thì cũng ấm cúng lắm, có nhà quàng Vĩnh Phước, nhà quàng Thiện Tâm lo lắng chu đáo theo phong tục người Việt, hoa được đem đến tặng đầy phòng. Tùy theo tín ngưỡng, bạn sẽ được Cha, hoặc thầy ở chùa và ban hộ niệm tới đưa bạn ra đi ấm cúng với câu kinh, tiếng kệ.
Nếu người chết không có thân nhân, tiền bạc. Không sao,nhà quàng vẫn lo chu đáo, sau đó cộng đồng kêu gọi đồng hương đóng góp giúp đỡ, nghĩa tử là nghĩa tận. Bằng cách nào thì người chết vẫn rất được tôn trọng và ấm áp ra đi.
Trên đường ra nghĩa trang, đoàn xe tang sẽ được 4-5 cảnh sát chạy mô tô theo giữ an toàn suốt lộ trình, thay phiên nhau cản xe, và chặn các ngã tư đường, để giữ đoàn xe tang được đi liên tục, không đứt quãng.

Ở Mỹ, mọi người có thói quen ra đường gặp đám tang, không cần biết người chết là ai, những xe chạy trên đường thường tự động ngừng lại, tránh vào lề, nhường đường để tỏ lòng tôn trọng người chết.

Không phải nói quá, đóng cửa trong nhà thì không biết ra sao, chứ nơi công cộng, văn hóa ứng xử của người Mỹ thật đáng cho ta học hỏi.

Houston:


- Có nhiều khu phố tập trung làm nơi sinh hoạt của người Việt Nam, nhưng đông đúc nhất là những dãy phố trải dài trên đường bellaire phồn thịnh, mà những căn phố, hay những tòa nhà đồ sộ ở nơi này đều do người Việt mua đứt, làm chủ.
- Có hệ thống nhà hàng Kim Sơn danh tiếng, có nhiều hệ thống siêu thị bán thực phẩm vĩ đại (như Hồng Kông), rất nhiều văn phòng bác sĩ, nha sĩ, luật sư Việt Nam nổi tiếng, mà thân chủ không ít là người ngoại quốc xếp hàng chờ đợi...

image

- Có vài đài truyền hình, có dăm ba đài radio lớn phát sóng thường xuyên phục vụ cộng đồng, có nhiều hội ái hữu đồng hương để gặp gỡ sinh hoạt.

image

















- Có nhiều báo ngày, báo tuần, báo tháng... phục vụ đồng hương miễn phí.

image

- Có hội văn hóa khoa học, hàng năm tổ chức vinh quy bái tổ, khuyến khích, vinh danh cho những con em đạt được thành tích xuất sắc.

image

Có nhiều nữa, không thể kể hết...
Đấy, nhiều sinh hoạt hữu ích, nhiều sắc màu của cuộc sống lắm, không lẻ loi, cô đơn đâu, nếu có ý định thay đổi tiểu bang hay thành phố thì nên chọn nơi đây làm chỗ dừng chân nhe bạn..! 
Người Việt mình ở đây, đa số làm ăn hoà nhập với người bản xứ, nghĩa là sống trải rộng, buôn bán làm ăn trực tiếp đủ mọi ngành nghề, chủ yếu phục vụ người ngoại quốc, từ tiệm tạp hoá, tiệm móng tay, sửa xe, tiệm giặt ủi, nhà hàng, cây xăng... có mặt khắp từ hang cùng ngỏ hẽm, tới những khu sang trọng. Người Việt có mặt trên từng cây số, và không thể phủ nhận sự thành công vẻ vang của họ.
Cũng như tiểu bang Cali nổi tiếng về điện tử, thì Houston nổi tiếng với kỹ nghệ dầu hỏa, với nhiều hãng dầu vĩ đại. Bên cạnh cũng có nhiều hãng về kỹ nghệ tin học, như hãng HP chuyên sản xuất máy tính danh tiếng, mà nếu có dịp bước chân vào, bạn sẽ thấy nhân viên người Việt từ sếp lớn, sếp nhỏ chiếm đa số. Những ngành này cung cấp được nhiều công ăn việc làm cho người bản xứ và người Việt, ta đã thừa cơ hội chen chân vào hưởng phước cũng khá nhiều.

image

Tính sơ về hãng tiện (phục vụ cho kỹ nghệ dầu hoả), có khoảng 2.000 hãng lớn nhỏ do người Việt làm chủ. Mấy năm nay xăng dầu trên thế giới khủng hoảng lên giá,nên sản xuất tăng vọt, công nhân tha hồ làm thêm giờ, và các ông chủ thì trúng lớn, góp thêm nhiều tên Việt Nam trong danh sách những triệu phú ở Mỹ.

image

Nói chung, vật giá ở Houston rẻ hơn những nơi khác, công ăn việc làm nhiều, rất dễ sống. Những năm trước, khi kinh tế còn phồn thịnh, phải nói thu nhập mọi người rất dồi dào, bên cạnh làm ăn nuôi dạy con cái, họ còn đầu tư chỗ này, chỗ kia, nên sau vài chục năm, đa số dân Việt Nam ở đây ai cũng có của ăn của để.
Khác với dân bản xứ không có thói quen dành dụm, do cả đời cuộc sống quá đầy đủ , được chính phủ bao bọc triệt để, nên họ rất vô tư, ăn xài thoả thích, không cần biết ngày mai. Người Việt mình tuy giàu có, nhưng vốn trải qua nhiều biến động, từng đói khổ, phải ra đi, nên đại đa số có thói quen "tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn". Làm 10 đồng, xài nhiều lắm là 5-6 đồng, còn thì tích lũy dành dụm, đầu tư, hay để vào tiết kiệm kiếm lời.
Bây giờ kinh tế eo xèo, công tâm mà nói, họ cũng giảm bớt những chi tiêu xa xỉ, dù làm còn 6 đồng thì cũng vẫn kế hoạch để dư ra 1-2 đồng. Tóm lại, ít ai ăn xài hết số tiền kiếm được hiện tại, đừng nói chi đụng đến vốn để dành.

image

Trong khi dân bản xứ la lối om sòm, than thở, đòi chết, đòi sống, để làm áp lực với chính phủ hầu hưởng thêm những khoản trợ cấp phụ trội, vì gặp khó khăn với thói quen ăn xài quá lố của mình, thì người Việt ta vẫn bình thân như vại. Tôi nghĩ cho dù kinh tế suy thoái kéo dài thêm 5 năm nữa, người Việt ta cũng không hề hấn gì. Ngay Houston này, tôi thấy mọi người vẫn ung dung. Chợ, nhà hàng, tiệm tóc... đầy người đang đi mua sắm, đi ăn, làm đẹp... Tôi thật tình nể họ quá!
Còn dân bản xứ, la lối để yêu sách này nọ thế thôi, chứ 10 người mới có một người thất nghiệp (10%). Thì đã sao? Có biết bao nước, con số thất nghiệp còn cao hơn nhiều, mà có được chính phủ giúp đỡ gì đâu? Ở Mỹ này, trợ cấp thất nghiệp cứ được gia hạn dài dài, dân chúng miệng thì la, nhưng ăn xài vẫn không giảm. Nghĩ cho cùng, làm dân xứ giàu cũng sướng thật !

Thế hệ người Việt ra đi bằng đường biển năm xưa, giờ thì không ít người tuổi đã cao, đa số đã về hưu (dù chưa tới tuổi hưu). Sau nhiều năm cực nhọc, họ cũng muốn hưởng phước, công việc làm ăn đa phần đã chuyển nhượng lại cho những người qua sau, cứ thế dòng đời tiếp tục vận chuyển.

Còn thế hệ thứ hai, đám con cái họ, đa số đã thành danh, thành nhân, có thể tiến thân vững vàng, có mặt rạng rỡ trong những ngành nghề đòi hỏi trình độ học vấn hiểu biết cao, và thu nhập cũng ngất ngưởng.So với những công việc nhiều giờ, lao động vất vả một thời cha mẹ họ trước kia, ở hoàn cảnh lỡ thợ, lỡ thầy, chấp nhận hy sinh làm bệ phóng và đá lót đường cho bầy con vươn lên nơi xứ Người.

Tôi thật tình thấy vui lẫn hãnh diện nhìn tương lai đám trẻ Việt Nam, thế hệ thứ hai.

Bất động sản

Về thị trường nhà cửa thì ở Houston quá rẽ, riêng ở Cali thì quá mắc, nhân đây chúng ta thử tìm hiểu xem và đề cập sơ về vấn đề này.!


Rất đúng, tôi hoàn toàn công nhận, như chúng ta đã biết. Này nhé một căn nhà ở Houston có giá 100 ngàn, nếu ở Cali sẽ có giá 500 ngàn, sao thế?
Lý do vì miếng đất đó ở Texas chỉ có giá 15 ngàn, mà ở Cali giá tới 415 ngàn, vật liệu xây dựng đâu cũng thế, chỉ 85 ngàn thôi, nhưng khác biệt là giá đất, nên căn nhà có cũ, sập, cháy... thì miếng đất vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt chẳng mất đi đâu, là món tài sản theo thời gian thành vô giá, giống như đất ở Sài Gòn so với đất Long Khánh, thế thôi.
Vì quá mắc, nên bạn vất vả để có nó, nhưng bạn thử nghĩ, nó là món tài sản lớn, nếu bạn muốn nghỉ hưu, chỉ cần bán nó là bạn có một số tiền lớn trong tay, không cần phải đem nửa triệu bạc về Việt Nam để sống như vua. Chỉ cần bạn qua Texas này, mua căn nhà rộng rãi chỉ tốn 100 ngàn, còn lại 400 ngàn bỏ ngân hàng lấy lãi, bạn cũng sống ung dung cả đời. Mà xứ này, nơi đâu cũng có đủ tiện nghi tối đa, phục vụ bạn không phân biệt tiểu bang nào.

Cuộc sống ở đâu thì rồi cũng thế, muôn hình, muôn mặt, trăm ngàn góc cạnh khóc cười, biết vẽ sao cho hết. Cách nhìn nhận sự việc do đó đương nhiên cũng không thể giống nhau. Ngay cộng đồng người Việt ở đất Mỹ này cũng nhiều khác biệt, nhóm người đi trước 75, nhóm người ra đi năm 75-85, nhóm đoàn tụ gia đình sau này, nhóm du học sinh "sanh sau, đẻ muộn" , nhóm thương gia, đại gia chuyển tiền qua làm ăn, kinh doanh...
Động lực, hoàn cảnh ra đi khác nhau, thì quan điểm, cách nhìn nhận sự việc cũng sẽ khác, có khi còn đối chọi nhau đến vỡ đầu, sứt trán nữa không chừng. Nên mỗi bài viết, còn tùy thuộc vào cái nhìn riêng của mỗi người, nếu không đúng với cái nhìn của bạn, xin đừng vội lên án là nổ, là sai. Xin bạn hãy kiên nhẫn, theo thời gian rồi bạn sẽ có cái nhìn rõ hơn về sự việc.

Tôi tin rằng chỉ cần tiếp tục đọc VnExpress đi, trong tương lai tôi chắc sẽ có thêm nhiều bài viết, nêu rõ từng góc cạnh của sự việc. Lúc đó được tổng hợp từ nhiều phương hướng khác nhau, tôi tin rằng sự hiểu biết, cũng như tầm nhìn của bạn về nước Mỹ sẽ rộng và chính xác hơn bây giờ nhiều.

Tôi có hân hạnh đọc phản hồi ý kiến của một vài bạn, sau khi đọc cả bài viết của người ta, lại bảo rằng không hiểu người viết muốn chuyển tải điều gì. Trường hợp này tôi rất thông cảm với bạn, vì chính tôi đây đã không ít lần ở vào trường hợp này. Đơn giản và cụ thể nhé: tôi thỉnh thoảng vẫn xem tin tức các phi hành gia đổ bộ mặt trăng. Dù đầy đủ những bài viết tường trình về đất đá, điều kiện sống, có đính kèm hình ảnh, tôi vẫn không thể hình dung được hình dáng mặt trăng như thế nào. Dù thế nào chăng nữa, đầu óc tôi vẫn còn chứa đựng hình ảnh một mặt trăng với gốc cây đa, có chú cuội và chị Hằng Nga xinh đẹp.

Đấy bạn thấy không? Tôi rất giống bạn, ở một nơi cao xa như vậy, lại chưa đặt chân tới, hay sống cùng, thì khó cho trí tưởng tượng, cũng như sự hiểu biết của mình dung nạp được, phải không bạn hiền?


Thôi thì chúng ta cùng kiên nhẫn nhé. Tôi tin có một ngày, bạn và tôi sẽ được hiểu rõ mà thôi. Góp Gió thành Bảo, muốn gấp cũng không được bạn à .

Thứ Hai, 7 tháng 9, 2015

TỤC CƯỚI HỎI NGÀY XƯA CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM .


Nền luân lý của xã hội Việt Nam thời phong kiến luôn xem trọng việc thờ phụng tổ tiên, như là một  bổn phận  thiêng liêng  của con cháu. Thờ phụng phải được tiếp nối liên tục qua các đời. Vì vậy, người con trai phải sớm lập gia đình để mau có con trai nối dõi tông đường, lo việc đèn nhang, kỵ giỗ...

Lấy chồng từ thuở mười ba
Đến năm mười tám em đà năm con.

Năm 1888, nhà nước bảo hộ Pháp ấn định con gái 14 tuổi, con trai 16 tuổi mới được làm đám cưới. Tuy không thay đổi là bao so với 13 và 16 tuổi, nhưng ít ra luật pháp cũng chính thức cấm tục tảo hôn (lấy vợ sớm), không cho phép con trai dưới 16 tuổi lấy vợ. Tuy bị cấm, nhưng ở nông thôn miền Bắc, hủ tục này còn rơi rớt đến tận những năm 1940. Một vài cậu bé con nhà giàu, mới lên tám, lên mười đã được cha mẹ cưới cho một cô vợ lớn gấp hai, ba lần tuổi mình. Thật ra mục đích của cha mẹ cậu bé là kiếm một người giúp việc không công, chứ chẳng phải là lo cho con, hay cho ông bà tổ tiên. Cũng có thể cả hai, một công hai, ba chuyện mà...đều có lợi hết,lo tất mọi việc trong ngoài,cho mọi người trong gia đình và lại đặc biệt chăm lo, săn sóc cho Chồng từ miếng ăn giấc ngũ lại thêm cõng đi chơi nữa chứ bộ.! 

Bồng bồng cõng Chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất Chồng
Chị em cho mượn gàu sòng
Để đến chỗ lội múc Chồng tôi lên.!

Quan niệm Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Con gái không có quyền quyết định. Duyên phận phó mặc cho may rủi, chọn lựa của cha mẹ..

Thân em như hạt mưa rào 
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa 
Thân em như hạt mưa sa 
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày

Muốn cưới vợ cho con,phải cần người mai bàn tính,rồi sau mới định ngày lễ cầu 
thân. Lễ cầu thân xong rồi mới định lễ dẫn cưới. Dẫn cưới xong rồi mới định ngày đón dâu. Ngày hôm sau chào cha mẹ chồng, ngày thứ ba đến lễ nhà thờ. Nghi thức tiết mục, phải theo đúng như điều đã ban xuống mà làm. Không được như trước, nhà trai dẫn lễ cưới rồi để đến 3, 4 năm mới cho đón dâu. Bắt đầu, nhà trai bắn tin thăm dò. Các nhà quyền quý thường tìm nơi môn đăng hộ đối (gia đình tương xứng). Sau khi đã được nhà gái đồng ý, nhà trai mới nhờ ông mai hoặc bà mối mang trầu cau và trà tới xin dạm. Đẹp như rối, không mối không xong vai trò trung gian của ông mai bà mối rất quan trọng.

Lễ dạm tương đương với ba lễ đầu của ngày xưa. Trầu cau luôn luôn có mặt trong các lễ cưới hỏi của người Việt Nam.

Truyền thuyết kể rằng: Ngày xưa có hai anh em nhà kia, hơn nhau một tuổi và giống nhau như đúc (có người kể là hai anh em sinh đôi). Cha mẹ mất sớm. Được 17, 18 tuổi, hai anh em đến xin trọ học tại nhà một đạo sĩ. Học hành chăm chỉ, tính tình đứng đắn, cả hai được thầy yêu quý. Thầy có người con gái tuổi trăng tròn, xinh đẹp dịu hiền. Cô gái đem lòng yêu mến hai anh em.

Ít lâu sau cô xin phép cha lấy người anh làm chồng. Từ ngày lập gia đình, người anh quấn quýt bên cô vợ trẻ, lơ là với em. Người em cảm thấy lẻ loi. Một hôm hai anh em cùng lên nương làm việc đồng áng, tối trời mới về. Người em vào nhà trước. Chị dâu trong buồng chạy ra, tưởng là chồng mình, vội ôm chầm lấy. Người em lúng túng kêu lên. Hai người cùng ngượng ngùng xấu hổ. Được chứng kiến cảnh vợ và em ôm nhau, người anh đem lòng nghi ngờ. Từ đó tình anh em lại càng lạnh nhạt.

Một buổi chiều kia, anh chị đi vắng, người em cảm thấy cô đơn, buồn tủi, quyết định bỏ nhà ra đi. Chàng đi, đi mãi đến một khu rừng, có con suối chắn ngang. Màn đêm xuống dần... Mỏi mệt, đói khát, buồn chán, chàng lịm thiếp đi rồi chết. Xác chàng biến thành một tảng đá.

Vợ chồng người anh về nhà không thấy em. Qua ngày hôm sau vẫn vắng bóng. Người anh lẳng lặng bỏ nhà đi tìm. Đến khu rừng, cạnh con suối, ngồi tựa lưng vào tảng đá nghỉ mệt. Thương nhớ em... Chàng thiếp đi, chết giữa đêm khuya, hóa thành một cây mọc thẳng bên cạnh tảng đá.

Đến lượt người vợ trông chờ mãi không thấy chồng về, cũng lần theo con đường mòn đến cạnh bờ suối. Đêm đó nàng chết, hóa thành một cây leo, quấn chặt thân cây cao.

Một hôm vua Hùng Vương đi qua chốn ấy. Nghe dân làng kể chuyện, vua sai người lấy lá cây leo, hái quả cây cao. Nghiền lá với quả thì thấy một mùi thơm nhẹ nhàng toát ra. Nhai thử thì thấy vị cay, tê tê đầu lưỡi. Nước tiết ra, nhổ lên tảng đá thì thấy một màu đỏ thắm hiện lên.

Dân làng đặt tên cây cao là cau, cây leo là trầu, tảng đá là vôi.

Nước ta có tục ăn trầu từ đó.Trầu cau tượng trưng cho tình nghĩa thủy chung, thắm thiết. Miếng trầu là đầu câu chuyện, trong cuộc sống hàng ngày, mỗi khi gặp gỡ nhau người ta cũng thường mời nhau miếng trầu. Ngày nay miếng trầu có thêm tí vỏ, ít thuốc lào, càng làm tăng thêm hương vị. 

Sau lễ dạm đến lễ nạp tệ, hay thách cưới

Nhà gái đưa ra một danh sách những đồ vật và tiền bạc bắt nhà trai phải nộp. Thông thường thì cũng phải:

Giúp em một thúng xôi vò 
Một con lợn béo, một vò rượu tăm 
Giúp em đôi chiếu em nằm 
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo 
Giúp em quan tám tiền cheo 
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau
Có cưới mà chẳng có cheo 
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài

Chàng trai nói giúp cho lịch sự chứ thật ra là bị bắt buộc. Có khi nhà gái thách cao, đòi bò, đòi trâu, vòng vàng, xà tích bạc... 

Năm 1663 vua Lê Huyền Tông ban điều giáo hóa:

Vợ chồng là gốc luân thường, lấy vợ, gả chồng phải theo lễ nghĩa, không được suy bì giàu nghèo, đòi nhiều tiền của. Lấy nhau phải phân biệt họ hàng, nòi giống, không được tham giàu sang mà phối hợp loạn luân thường, không được cẩu hợp không có sính lễ để đến nỗi gần như giống cầm thú... 

Năm 1804 vua Gia Long định lệ:

Trai lấy vợ, gái lấy chồng thì sính lễ phải châm chước. Trong 6 lễ phải tùy sức nhà trai giàu nghèo, không được bắt ép viết văn khế cầm ruộng... 

Bên cạnh thách cưới, nhà trai còn phải nộp cheo cho làng cô gái. Có nộp cheo mới được làng công nhận chuyện cưới xin. 

Xưa kia nước ta không có sổ sách hộ tịch. Khi nhận tiền nộp cheo, làng viết giấy chứng nhận. Giấy này có giá trị như giấy giá thú ngày nay. Đám cưới nào không nộp cheo thì cặp vợ chồng đó sẽ bị làng coi như sống lén lút:  Ý muốn của chàng trai cũng phải được cha mẹ chấp nhận thì mọi chuyện mới trôi chảy êm đẹp.

Ngày xưa, lễ nghi cưới hỏi bị ảnh hưởng Tàu. rất rườm rà, phức tạp.

Theo sách Văn công gia lễ thì cưới xin có 6 lễ chính:

1- Nạp thái : nhà trai đến nhà gái ngỏ ý 
2- Vấn danh : nhà trai hỏi tên tuổi cô gái để tính ngày giờ, xem có bị xung khắc không ? 
3- Nạp cát : chọn được ngày tốt, xác nhận với nhà gái 
4- Nạp tệ : đưa đồ thách cưới do nhà gái ấn định 
5- Thỉnh kỳ : định ngày làm lễ cưới, nộp nữ trang, vải vóc cho nhà gái 
6- Nghinh hôn (thân nghinh): lễ rước dâu

Năm 1477 nhà Lê quy định rằng :


Nộp cheo bằng đồ vật hay tiền bạc. Có làng bắt nộp chiếc mâm đồng, ít chén bát để dùng cho hội hè đình đám. Có nơi đòi ít gạch để lót lại quãng đường hư hỏng, hay một ít vật liệu để sửa cái cầu, giếng nước...

Luật xưa quy định: Bất cứ ở cùng một làng hay làng khác đều cho phép thu cheo một quan tiền cổ và một vò rượu. Quan viên và binh lính ở xã thôn nhà gái không được viện cớ người ta lấy chồng làng khác mà đòi tiền cheo quá lạm (1663).

Về tiền cheo thì nhà giàu phải nộp 1 quan 5 tiền, nhà bậc trung nộp 6 tiền, nhà nghèo nộp 3 tiền (1804).Tuy luật quy định như vậy nhưng trong thực tế vẫn có sự phân biệt người cùng làng hay khác làng. Và tiền cheo thường bắt nộp quá mức luật định.

Nhà trai sắm sửa đủ đồ thách cưới thì làm lễ hỏi , mang tới nộp nhà gái.

Sau lễ hỏi, nhà trai phải năng lui tới thăm hỏi, sêu tết nhà gái. Mùa nào thức ấy: nhãn, vải, hồng, cốm...trong khi chờ đợi lễ cưới.

Lễ cưới, còn gọi là rước dâu, đón dâu, tên chữ là nghinh hôn, là lễ quan trọng nhất.

Lễ cưới phải chọn ngày tốt, đón dâu phải lựa giờ tốt. Ngày xưa có tục đón dâu vào buổi tối. Nhà trai mang trầu cau, rượu, xôi, gà, lợn...đến nhà gái. Dẫn đầu là một cụ già, không có tang, vợ chồng song toàn, lắm con nhiều cháu. Cụ già mặc áo thụng xanh, cầm bó hương hay ôm lư trầm. Theo sau là những người đội lễ vật, tiếp đến chú rể, họ hàng. Ngày xưa chú rể đội nón. Đến đầu thế kỷ 20, chú rể tân thời bỏ chiếc nón, thay bằng cái ô tây, miệng phì phèo thuốc lá. Ngoài Bắc, chỉ có cha chú rể đi đón dâu. Trong Nam, cha mẹ chú rể cùng đi.


Trên đường đến nhà gái, nhà trai thường bị những người nghèo và trẻ con tổ chức bày hương án, chăng giây ngăn cản. Mục đích của đám này là đòi ăn uống, tiền bạc, họa hoằn mới để mua vui. Muốn cho mọi chuyện được êm đẹp, khỏi bị quấy phá, chửi rủa tục tằn, làm chậm trễ buổi lễ, nhà trai thường phải chiều ý chúng.

Khi nhà trai tới đầu ngõ, nhà gái đốt pháo đón mừng. Người chủ hôn hoặc cha chú rể đứng ra tuyên bố xin đón dâu. Đại diện mẹ chú rể bưng trầu cau đặt trước mặt nhà gái để xin con dâu


Nhà gái mời đại diện nhà trai cùng cô dâu chú rể làm lễ cáo gia tiên. Đây cũng là một dịp để trẻ con bên nhà gái đóng cửa nhà thờ nhõng nhẽo vòi tiền nhà trai.

Sau đó, nhà trai xin rước dâu. Ngoài Bắc, cha mẹ cô dâu không đưa tiễn con gái về nhà chồng. Trong Nam, nhà gái cũng kén một cụ già cầm bó hương đi trước, theo sau là cô dâu và cha mẹ họ hàng, bạn bè đưa tiễn.

Đám rước dâu vẫn do cụ già của nhà trai cầm bó hương dẫn đầu, đằng sau là hai họ. Đoàn người về tới đầu ngõ thì nhà trai đốt pháo chào mừng.

Trong lúc đi đường, cô dâu ăn mặc đẹp sợ bị thiên hạ quở quang, phải cài vài cái kim vào choàng áo để trấn áp những câu nói độc mồm độc miệng.

Giữa bậc cửa vào nhà chú rể đặt một hỏa lò than hồng để cô dâu bước qua. Than hồng sẽ đốt hết những vía xấu đi theo quấy phá cô trên đường về nhà chồng.

Bình vôi là bà chúa trong nhà, chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi. Khi làm vỡ bình vôi thì đem mảnh bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vứt ở chỗ ô uế. Tại sao bình vôi lại là uy quyền, của cải ?

Chữ vôi (nôm) được viết bằng chữ khôi (hán việt). Khôi chính nghĩa là tro, là màu xám. Chữ khôi có nhiều từ đồng âm. Trong đó có chữ khôi (bộ quỷ) nghĩa là đứng đầu và chữ khôi (bộ ngọc) nghĩa là quý báu.

Do đó cái bình vôi của ta được dùng để tượng trưng cho người đứng đầu về mặt của cải. Bà mẹ chồng giữ bình vôi để bảo vệ uy quyền của mình và của cải của gia đình. Chiếc bình vôi chỉ là một suy diễn chữ nghĩa của giới bình dân chứ không mang nội dung thần thánh. Ý kiến cho rằng bình vôi là bà chúa chưa ai định danh là bà chúa gì và bình vôi là tục bái vật có lẽ đã vượt quá xa khả năng suy diễn hán nôm của giới bình dân !

Có nơi chờ đám rước dâu về tới đầu ngõ, một người lấy chày giã vào cối đá, đôi khi giã mạnh đến vỡ cả cối. Tục ấy thì ngộ quá, không hiểu ý làm sao (Phan Kế Bính).

Giã cối là một tục cổ, có từ thời đại Hùng Vương. Giã cối cũng là một tục lệ ngày hội. Từng đôi nam nữ cầm chày dài đứng giã cối tròn. Đó là những chiếc cối rỗng, là một thứ dụng cụ nông nghiệp, đồng thời là nhạc cụ, và cũng là vật tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Trở thành một tiết mục trong ngày hội lễ, giã cối(và hát) vừa là hình thức biểu diễn và thưởng thức văn nghệ vừa là trò chơi và hình thức giao duyên nam nữ, vừa mang ý nghĩa cầu mong sinh sản đầy đàn làm ăn thịnh vượng.

Chày cối, theo quan niệm dân gian, là hình giống của nam và nữ. Giã cối, ở một số nơi, còn có ý nghĩa tượng trưng cho hành động tính giao. Cô dâu, chú rể cùng lễ tổ ở nhà thờ họ nhà trai, rồi trở về nhà chú rể lễ gia tiên, chào mừng cha mẹ, họ hàng bên chồng.

Trước khi cô dâu bước vào nhà, mẹ chú rể xách bình vôi lánh mặt một lúc lâu rồi mới về chào mừng hai họ.

Có ngườì cho rằng bình vôi tượng trưng cho của cải trong nhà. Lại có người cho rằng bình vôi là một tục bái vật cổ truyền xa xưa của dân ta.


Con gái là con người ta 
Con dâu mới thật mẹ cha mua về.

Từ giờ phút này, cô dâu trở thành một người của gia đình bên chồng.

Có nơi còn làm lễ tơ hồng, cám ơn Nguyệt Lão đã xe duyên cho đôi trẻ.

Tích Nguyệt Lão kể rằng: Đêm trăng, Vi Cố đi chơi gặp một ông già ngồi đọc sách, tay cầm nắm dây tơ màu đỏ. Vi Cố chào hỏi, ông già tự xưng là Nguyệt Lão chuyên việc xe duyên cho nhân gian. Dây tơ đỏ để buộc chân những cặp vợ chồng có tên trong sách. Vi Cố tò mò muốn biết ai sẽ là vợ tương lai của mình. Nguyệt Lão tra sách, trả lời là đứa bé gái, con người ăn mày ngoài chợ. Vi Cố tức giận. Hôm sau ra chợ tìm giết đứa bé. Đứa bé bị Vi Cố chém một nhát trúng đầu, ngất đi. Về sau Vi Cố kết duyên cùng con gái một vị quan to. Một hôm thấy vết sẹo trên đầu vợ, hỏi ra mới biết rằng thuở nhỏ nàng bị một người chém giữa chợ, được quan cứu sống, đem về nuôi. 

Tối hôm cưới, gọi là tối động phòng, làm lễ hợp cẩn. Hai vợ chồng cùng uống chung một chén rượu.

Cưới được ba ngày, đến ngày thứ tư thì hai vợ chồng mang xôi chè, trầu rượu về nhà bố mẹ vợ lễ gia tiên, gọi là lễ lại mặt hay tứ hỉ. 

Luật xưa nghiêm cấm cử hành lễ cưới trong lúc gia đình có tang từ một năm trở lên (tang ông bà, chú bác, cha mẹ). Nhà trai hoặc nhà gái gặp lúc gia đình có cha mẹ, ông bà hay chú bác đau ốm nặng, thường cho cử hành gấp lễ cưới. Nếu có người chết, phải làm đám cưới trước khi phát tang, cưới vội vã như vậy gọi là đám cưới chạy tang). 

Xã hội Việt Nam ngày nay đã thay đổi rất nhiều. Phần đông trai gái ngày nay lấy nhau ở độ tuổi từ 20 đến 30. Họ có nhiều dịp gặp gỡ, tìm hiểu nhau trước khi quyết định làm đám cưới. Cha mẹ được hỏi ý kiến nhưng không còn nắm vai trò quyết định nữa. Nhờ đó mà hủ tục môn đăng hộ đối không còn nữa. Nghi lễ được tổ chức đơn giản để đỡ tốn thời gian. Lễ hỏi, lễ cưới chỉ có trầu cau, trà bánh và rượu. Lễ gia tiên còn được giữ,các lễ khác thường bò̉ qua.Nh́iều nơi rước  dâu bằng xe hơi.

Ở nước ngoài, các cô dâu Việt Nam thường mặc áo dài thêu rồng vẽ phượng, đầu đội khăn vành, màu đỏ màu vàng, trong khi ở trong nước các cô lại chuộng chiếc áo cưới cồng kềnh lết đất của Âu Mỹ.

Chiều tối hai họ cùng tổ chức mời bạn bè ăn uống. Cô dâu thay ba bốn bộ quần áo, giống như một cuộc trình diễn thời trang.



 Sách báo tham khảo: - Phan Kế Bính,Việt Nam Phong Tục, Tổng Hợp Đồng  Tháp, 1990. 

- Toan Ánh, Phong Tục Việt Nam, Khai Trí, 1968. 
- Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu, Đất Lề Quê Thói, Saigon, 1968. 
- Nhiều tác giả, Thời đại Hùng Vương, Khoa Học Xã Hội, 1976. 
- http://www.vnn.vn/vnn3/phongtuc/gio_tet/bai_vat.htm 
- Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, Trường Thi, 1957.

THẾ GIỚI HỒI GIÁO XƯA VÀ NAY .


MÔ HÌNH SINH HOẠT TRONG THẾ GIỚI HỒI GIÁO 
(The Patterns of Islamic Life)

Các mô hình sinh hoạt của các tín đồ Hồi Giáo đã được hình thành do hai yếu tố chính: Trước hết, do các tín lý giáo điều đã được vạch ra trong kinh Koran và sau đó là do các phong tục tập quán trong nếp sống du mục lâu đời của người Ả Rập. Người ta có thể liệt kê khoảng 15 mô hình sinh hoạt như sau:
1. Vai trò ưu thế của nam giới trong xã hội.
Trong xã hội Hồi Giáo, đàn ông luôn luôn được coi là chủ gia đình và là người chính yếu kiếm tiền nuôi vợ con và mọi thân nhân lệ thuộc (the main wage-earner). Tuy nhiên, mức độ ưu thế của đàn ông cũng còn tùy thuộc vào phong tục tập quán của mỗi quốc gia,vì ngày nay Hồi Giáo đã trải rộng khắp nơi trên thế giới. Tại Afganistan, quyền thắng thế của đàn ông gần như tuyệt đối vì luật pháp cho phép đàn ông đánh đập đàn bà công khai trên đường phố trong khi tại Thổ Nhĩ Kỳ quyền bình đẳng nam nữ đã được luật pháp tôn trọng.
2. Ngôn ngữ Arabic và các chuyển ngữ chính thức trong đạo Hồi.
Các kinh sách quan trọng nhất của đạo Hồi là Kinh Thánh Koran, các sách giáo lý Sunna, Hadiths và sách luật Sharia đều được viết bằng tiếng Arabic. Do đó, ngôn ngữ Arabic được coi là ngôn ngữ chính của đạo Hồi. Các học giả nghiên cứu đạo Hồi và các sinh viên thần học Hồi Giáo (thuộc mọi chủng tộc) đều phải học tiếng Arabic để nghiên cứu các kinh sách nguyên bản. Còn lại tuyệt đại đa số các tín đồ Hồi Giáo đều không biết tiếng Arabic nên phải dùng các chuyển ngữ. Trong thế giới Hồi Giáo có 4 nhóm chuyển ngữ:
  1) Tiếng URDU là chuyển ngữ chung cho các tín đồ Hồi Giáo thuộc các nước Ấn Độ, Bangladesh và Pakistan.
  2) Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là chuyển ngữ cho các nước Trung Á như Kazakstan, Uzebeikistan, Afganistan...
  3) Tiếng Farsi là chuyển ngữ chung cho các nước Cận Đông như Iran, Iraq, Syria...
  4) Các nước khác dùng ngôn ngữ riêng của mình.
3. Ngày lễ chính trong tuần.
Ky Tô Giáo chọn ngày Chủ Nhật làm ngày lễ chính trong tuần, Do Thái Giáo chọn ngày thứ Bảy (Sabath) trong khi Hồi Giáo chọn ngày lễ chính trong tuần là ngày thứ Sáu. Cứ đến ngày thứ Sáu, các đền thờ Hồi Giáo đông nghẹt người. Tại thủ đô Ai Cập có nhiều đền thờ không đủ sức chứa số lượng tín đồ quá đông đến nỗi cảnh sát phải chặn xe cộ trên đường phố, trải chiếu trên lề đường và trên cả đường phố để các tín đồ có chỗ đứng xếp hàng cầu nguyện. Sau khi buổi cầu nguyện chấm dứt, cảnh sát ra hiệu cho những dòng xe cộ bắt đầu chuyển bánh đi tiếp!
4. Đền thờ Hồi Giáo.
Đền thờ Hồi Giáo không phải là nơi để các tu sĩ hành lễ như nhà thờ Công Giáo hoặc các chùa Phật Giáo. Đền thờ Hồi Giáo chỉ là nơi họp mặt của các tín đồ để cầu nguyện tập thể mà thôi. Hồi Giáo không có tu sĩ vì họ quan niệm ai cũng có thể nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa nên không cần qua trung gian của bất cứ người nào khác. Hơn nữa, khác với Công Giáo, Hồi Giáo không có một "phép bí tích" nào nên không cần một thứ chức thánh nào (linh mục, giám mục, hồng y...). Hồi Giáo có nhiều thánh địa nhưng không có giáo đô nên không cần có giáo hoàng.
Hồi Giáo tối kỵ việc thờ ảnh tượng của Chúa và các Thánh nên bên trong và bên ngoài đền thờ luôn luôn trống trơn, không có một hình tượng nào cả. Đền thờ Hồi Giáo cũng tương tự như đền thờ Do Thái Giáo (Sinagogue), cả hai đều được định nghĩa là nơi họp mặt với nhiều mục đích. (Mosque: Meeting place for general use of the community). Ngoài việc được dùng làm nơi hội họp, đền thờ còn có thể được dùng làm trường học, bệnh viện hoặc nơi tạm trú cho những người tỵ nạn hoặc nạn nhân trong các vụ thiên tai v.v... Đền thờ Hồi Giáo Al-Azhar ở Cairo, thủ đô Ai Cập, từng nổi tiếng là một đền thờ đồ sộ và tráng lệ đã trở thành trường Đại Học đầu tiên của nhân loại vào cuối thế kỷ 10. Tới nay đã trên một ngàn năm, trường đại học này vẫn còn đang tiếp tục hoạt động.
Tất cả các đền thờ Hồi Giáo trên khắp thế giới dù lớn hay nhỏ và dù ở bất cứ nơi nào cũng phải hội đủ các tiêu chuẩn sau đây:
a. Phải có chỗ rửa mặt và tay chân sạch sẽ trước khi cầu nguyện.
b. Bên trong nhà thờ phải trống trải để các tín đồ có chỗ xếp hàng cầu nguyện.
c. Mọi đền thờ phải có một cái hốc khoét sâu vào tường (a niche) để định hướng cho mọi người quay mặt về thánh địa Mecca khi cầu nguyện, vì tại đó có nhà của Chúa, tức đền thờ Ka'ba (House of God).
d. Mỗi nhà thờ phải có một bục cao để IMAM giảng kinh vào ngày thứ Sáu hàng tuần.
e. Không được trang trí tường bằng tranh ảnh. Chỉ có thể trang trí bằng các hình kỷ hà học hoặc bằng nghệ thuật viết chữ Ả Rập (Calligraphy) hoặc bằng các hình vẽ nghệ thuật của hình học (geometrical decorations).
5. Huy Hiệu Hồi Giáo.
Thường thường, mỗi tôn giáo đều có một huy hiệu riêng để làm biểu tượng cho tôn giáo của mình. Chẳng hạn như hình ngôi sao 6 cánh (ngôi sao Đavít) là biểu tượng của đạo Ky Tô, hình con mắt là biểu tượng của đạo Cao Đài v.v...
Huy hiệu của đạo Hồi là một vành trăng lưỡi liềm, bên trong có hình ngôi sao năm cánh. Tiếng Ả Rập gọi huy hiệu này là HILAL. ? ?
Vành trăng lưỡi liềm tượng trưng cho Âm Lịch Hồi Giáo. Ngôi sao là biểu tượng cho sự tuân theo ý Chúa vì kinh Koran đã dạy rằng: "Thiên Chúa đã dựng nên các vì sao để hướng dẫn con người tới cùng đích" (Allah created the stars to guide people to destination).
6. Muezzin.
Mỗi một đền thờ Hồi Giáo có một người được chỉ định làm nhiệm vụ leo lên tháp cao mỗi ngày 5 lần để kêu gọi các tín đồ cầu nguyện. Tiếng Ả Rập gọi người đó là Muezzin. Ngày nay, người ta mắc loa phóng thanh trên tháp cao để kêu gọi tín đồ chứ không dùng Muezzin như xưa. Tuy nhiên, lời kêu gọi từ xưa đến nay không thay đổi: "Thiên Chúa là đấng vĩ đại vô cùng. Tôi tin không có Thiên Chúa nào khác ngoài Allah. Tôi tin Muhammad là thiên sứ của Ngài. Hãy đến cầu nguyện, hãy đến để nhận ơn cứu chuộc. Thiên Chúa Allah vĩ đại vô cùng. Không có Thiên Chúa nào ngoài Allah" (God is most great. I bear the witness that there is no God but Allah. Hasten to prayer. Hasten to salvation. Allah is most great, there is no God but Allah).
7. Lời cầu nguyện thần chú (The Invocation)
Tiếng Ả Rập BASIMALA có nghĩa là lời cầu nguyện đặc biệt có tích cách tiên quyết và bắt buộc đối với mọi tín đồ Hồi Giáo trong suốt cuộc đời. Có thể coi đây là một câu "thần chú" mà các tín đồ Hồi Giáo thường tự động buột miệng cầu nguyện mỗi khi bắt đầu làm một công việc gì, chẳng hạn như lúc mở đầu cuộc họp, khi leo lên xe bus, lúc bắt đầu lớp học, trước mỗi bữa ăn hay trước khi đi ngủ... Trong tất cả các sách của các tác giả Hồi Giáo, câu thần chú này phải được in ở trang đầu của cuốn sách. Câu thần chú như sau: "Nhân danh Thiên Chúa đầy lòng thương xót và nhân từ vô cùng. Chúng con ngợi khen Chúa là chúa tể vũ trụ và sự bình an. Chúng con dâng lời cầu nguyện Chúa cùng với đấng tiên tri và thiên sứ cuối cùng của Chúa". (In the name of God, the Compassionate, the Merciful. Praise be to Allah, Lord of the Universe and Peace. Prayers be upon his final prophet and messenger).
8. Lịch Hồi Giáo.
Do Thái và các dân tộc Ả Rập từ ngàn xưa vẫn quen dùng Âm Lịch. Tuy nhiên, người Ả Rập Hồi Giáo chính thức mở đầu một kỷ nguyên mới của Âm Lịch Hồi Giáo từ năm 622 (sau Công Nguyên) là năm Muhammad và cộng đồng Hồi Giáo từ Mecca di cư về ốc đảo Medina. Mỗi một vòng của mặt trăng xoay quanh trái đất là một tháng, 12 vòng là một năm, tổng cộng 354 ngày. So với năm dương lịch, mỗi năm của Âm Lịch Hồi Giáo thiếu hụt 11 ngày (365-354 = 11 ngày). Điều khác biệt của Âm lịch Hồi Giáo là không có tháng nhuận như Âm Lịch của người Trung Hoa. Do đó, sự thiếu hụt giữa Lịch Hồi Giáo và Dương lịch cứ bị tích lũy mỗi ngày một lớn. Đến nay, sự sai biệt giữa Âm Lịch Hồi Giáo và Dương Lịch là 42 năm.
Lấy thí dụ điển hình: Năm 2000 Dương Lịch là năm 1420 của Âm Lịch Hồi Giáo. Năm bắt đầu kỷ nguyên Âm Lịch Hồi Giáo là năm 622. Nếu tính theo Dương Lịch thì năm 2000 (2000-622) phải là năm 1378 của Hồi Giáo, nhưng vì năm Âm Lịch Hồi Giáo chỉ có 354 ngày nên số năm của Âm Lịch Hồi Giáo đã bị dư ra 42 năm (1420-1378=42).
9. Hôn lễ Hồi Giáo.
Tại các vùng thôn quê Hồi Giáo, việc hôn nhân của con cái hầu như đều do cha mẹ quyết định. Tại thành thị và trong giới học thức, các thanh niên nam nữ thường hẹn hò nhau một cách kín đáo tại nhà riêng. Nói chung, tại các nước Hồi Giáo hầu như không có cảnh trai gái tình tự công khai trên đường phố hay tại công viên. Tuyệt đại các tín đồ Hồi Giáo quan niệm hôn nhân là sự liên kết giữa hai gia đình hơn là sự kết hợp của hai cá nhân. Do đó, lễ cưới được coi là một sinh hoạt đặc biệt của cộng đồng (làng, bộ lạc...) nên mọi người trong cộng đồng đều được mời đến nhà chú rễ ăn một bữa tiệc vui. Trong tiệc cưới, nam nữ phải ngồi riêng.
Trong đạo Công Giáo, hôn lễ được coi là một phép bí tích nên hôn lễ phải được cử hành tại nhà thờ và do một linh mục chủ lễ. Trái lại, đạo Hồi không có phép bí tích nên không có một nghi lễ tôn giáo nào dành cho hôn nhân. Các lễ cưới đều diễn ra tại nhà riêng một cách đơn giản trong im lặng.
10. Tang lễ Hồi Giáo.
Trong đạo Hồi, không có một nghi lễ tôn giáo nào cho việc mai táng người chết. Các xác chết không được đưa đến nhà thờ, chỉ cần người nhà tắm rửa xác chết sạch sẽ, bọc xác bằng vải trắng, cho vào hòm đem chôn. Luật Hồi Giáo cấm thiêu xác chết vì họ tin rằng xác loài người sẽ sống lại trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng (The Last Judgement Day). Thân nhân người chết phải tự chế cảm xúc, không được gào thét quá đáng vì làm như vậy là không tin vào lòng nhân từ vô cùng của Thiên Chúa và không tin xác loài người sẽ sống lại. Sự chết chỉ là tạm thời, sự sống lại mới là vĩnh cửu!
Khi đặt người chết xuống huyệt, phải quay đầu người chết về hướng Thánh địa Mecca.
11. Chuỗi hạt Subha.
Allah là Thiên Chúa Duy Nhất (Allah is The Unity God) nhưng Muhammad đã ca ngợi Allah bằng 99 tên khác nhau trong kinh Koran: Đấng Hằng Sống (The Everliving) Đấng Tự Hữu (The Self-Subisting), Đấng Tối Cao (The Most High) Đấng Thông Biết Mọi Sự (The All-Knowing), Đấng Toàn Năng (The Almighty), Đấng Tạo Hóa (The Creator), Đấng Lòng Lành Vô Cùng (The Merciful, The Compassionate) Đấng Nhìn Thấy Mọi Sự (All-Seeing Deity) Đấng Biết Mọi Sự Hữu Hình và Vô Hình (The Knower of The Seen and Unseen) v.v...
Các tín đồ Hồi Giáo phải học thuộc 99 tên của Thiên Chúa. Để giúp tín đồ đếm đủ 99 tên này, giáo phái Sufis đã sáng chế ra chuỗi hạt SUBHA vào thế kỷ 14. Chuỗi hạt này tương tự như chuỗi hạt Mân Côi (Rosary Beads) của Công Giáo. Chuỗi hạt của Công Giáo có 50 hạt, chuỗi hạt của Subha chỉ có 33 hạt mà thôi. Tuy nhiên, mỗi khi lần hạt Bubha, các tín đồ phải lần hạt liên tiếp 3 lần cho đủ 99 tên của Thiên Chúa (33x3=99).
12. Chế độ ăn uống.
Chế độ ăn uống của các tín đồ Hồi Giáo đã được qui định một cách chặt chẽ trong kinh Koran:
- Tuyệt đối cấm uống rượu, dù là rượu nhẹ. Ngay cả trong trường hợp bị bệnh cũng không được uống thuốc có pha rượu. Do luật cấm nghiêm ngặt này nên hầu hết các tiệm bán rượu của người ngoại quốc trong các nước Hồi Giáo thường bị các tín đồ cực đoan đốt phá bình địa.
- Tuyệt đối cấm ăn thịt heo.
- Cấm ăn huyết của mọi sinh vật.
- Cấm ăn thịt các súc vật đã chết một cách tự nhiên.
- Các tín đồ chỉ được ăn thịt được sản xuất theo đúng luật Hồi Giáo gọi là HALAL MEAT: Người giết súc vật phải giết nó khi còn đang sống và khi giết nó phải cầu nguyện nhân danh Chúa. Sau khi xẻ thịt súc vật phải rửa thịt cho sạch máu.
Tại Mỹ và Canada, các tiệm bán thịt theo luật Hồi Giáo đều có treo bảng với hàng chữ HALAL Meat.
13. Đặt tên cho con.
Các tín đồ Hồi Giáo trên khắp thế giới thường đặt tên con bằng tên của giáo chủ Muhammad, các vị vua (Caliphs) kế vị Muhammad như Abu, Umar, Uthman và Ali, các cháu ngoại của Muhammad là Hasan và Husayn hoặc bằng các tên ghép với tên Allah của Thiên Chúa như: Abdallah (tôi tớ của Thiên Chúa/Servant of God) Abdul-Rahman (Tôi tớ của Đấng Nhân Lành vô cùng/Servant of the All-Merciful). Các cô con gái thường được cha mẹ đặt theo tên các bà vợ nổi tiếng của Muhammad như Khadija, Aisha hoặc tên con gái của Muhammad là Fatima.
14. Thiên đàng nhục dục của kinh Kroan và tinh thần tử đạo của thanh niên Hồi Giáo.- (The koranic paradise and the martyrdom)
Không có một tôn giáo nào mô tả Thiên Đàng là một khu vườn với những lạc thú vật chất và nhất là những lạc thú nhục dục tuyệt đỉnh với những cô gái trinh đẹp tuyệt vời và trẻ mãi không già... như trong kinh Koran. Người ta gọi Thiên Đàng của Hồi Giáo là Thiên Đàng của lạc thú (The Paradise of Delights) hoặc Thiên Đàng của Kinh Koran (The Koranic Paradise).
Kinh Koran (47:15) cho biết trên thiên đàng có những con sông với những dòng nước nguyên chất (rivers of purest water) những con sông sữa tươi không bao giờ hư (rivers of milk for ever fresh) và những con sông mật ong trong sạch nhất (rivers of clearest honey). Chương 56:16-39 mô tả thiên đàng là những khu vườn lạc thú (garden of delights) và mọi người lên thiên đàng đều trở thành những thanh niên trẻ mãi không già (Immortal Youth). Điều đặc biệt nhất là trên thiên đàng Hồi Giáo có các cô gái trinh đẹp tuyệt vời với những cặp mắt đen huyền vô cùng quyến rũ (the dark-eye houris).
Thiên Chúa Allah đã phán rằng: "Ta đã tạo ra các cô trinh nữ tuyệt vời đó, giữ cho họ mãi mãi trinh trắng với tình yêu nồng nàn để làm phần thưởng cho những ai làm việc phải" (We created the hourist and made them virgins, loving compassion, a reward for those on the right hand - Koran: surah 56).
Hầu hết các thanh niên Hồi Giáo cuồng tín đều ước mơ sớm được lên thiên đàng lạc thú. Con đường ngắn nhất và bảo đảm nhất để họ đạt được mục đích này là sẵn sàng tử đạo trong các cuộc thánh chiến (Jihad). Kinh Koran hứa rằng: "Những ai bị giết vì Chúa đều được vào thiên đàng lạc thú" (As for those who are slain in the cause of God, He will admit them to the Paradise of Delight). "Đừng bao giờ nghĩ rằng những người bị giết vì Chúa sẽ chết. Họ sẽ sống mãi, không có gì phải sợ hãi hoặc hối hận, hãy vui hưởng các hồng ân của Chúa. Chúa không bao giờ từ chối phần thưởng dành cho các tín đồ của Ngài" (Never think that those who were slain in the cause of God are dead. They are alive and well provided for by the Lord. Have nothing to fear or to regret, rejoicing in God's grace. God will not deny the faithful their reward - Koran 3:169).
Tên khủng bố Atta là phi công chủ chốt lái máy bay lao vào tòa cao ốc ở New York ngày 11-9-2001 đã tắm rửa sạch sẽ và nai nịt hạ bộ của y cẩn thận trước khi thi hành công tác khủng bố này. Y đã chuẩn bị sẵn sàng để đi vào thiên đàng lạc thú với những người đẹp muôn đời của y.
15. Những ngày lễ hội quan trọng nhất trong năm.
a. Lễ hội chấm dứt mùa chay Ramadan (The end of Ramadan).- Mùa chay kham khổ của các tín đồ Hồi Giáo trên toàn cầu kéo dài ròng rã suốt tháng 9 Âm lịch. Ngày 1 tháng 10 Âm lịch Hồi Giáo là ngày vui nhất trong năm của người Hồi Giáo, cũng tương tự như tết Nguyên Đán của người Trung Hoa và Việt Nam.
b. Lễ Mừng Sinh Nhật của giáo chủ Muhammad (Mawlid). Giáo phái Sunni (chiếm 80% tổng số tín đồ) mừng sinh nhật của Muhammad vào ngày 12 tháng 3 Âm lịch, giáo phái Shiite (chiếm 12%) mừng sinh nhật vào ngày 17-3 Âm lịch Hồi Giáo, tức sau 5 ngày. Các quốc gia công nhận đạo Hồi là quốc giáo coi ngày lễ này như ngày quốc khánh, khắp nơi trong cả nước tưng bừng treo cờ, kết hoa và chăng đèn tương tự như Lễ Noel tại các nước Ki Tô Giáo Tây Phương.
c. Lễ Mừng Muhammad lên trời (Miraj). Giáo phái Sufis tin rằng Muhammad đã lên trời cả hồn và xác như Jesus. Lễ Miraj cũng tương tự như Lễ Thăng Thiên (Ascension) của Ky Tô Giáo. Cả hai vị giáo chủ nầy đều được tin rằng đã lên trời tại Jerussalem. Jesus đã tự mình bay lên trời, còn Muhammad được thiên thần Gabriel trao cho một con ngựa thần có cánh (Buraq) chở ông bay về trời. Giáo phái Sufis Thổ Nhĩ Kỳ thường tổ chức các cuộc hòa nhạc kích động và các cuộc khiêu vũ tưng bừng để mừng lễ này.
d. Lễ hội Ashura kích động hận thù của giáo phái Shiite.- Vào ngày 10 tháng Giêng năm 680, cháu ngoại của Muhammad là Husayn (con trai của Ali và Fatima) bị triều đại Ummayad (theo giáo phái Sunni) sát hại. Giáo phái Shiite chọn ngày này làm lễ kỷ niệm gọi là Ashura, tương tự như Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (Good Friday) của Ki Tô Giáo.
Đây là ngày kỷ niệm mang đầy kịch tính nhằm gây xúc động tột độ nơi các tín đồ. Ở khắp nơi diễn ra những cảnh tượng quân Ummayads hành hạ Husayn và cuối cùng Husayn bị chém đầu . Các tín đồ khóc sướt mướt, đồng thời la hét nguyền rủa quân Ummayads. Buổi lễ được kết thúc bằng một đám rước khổng lồ với chiếc đầu giả của Husayn. Lễ Hội Ashura gây xúc động nhiều nhất là ở Iran và Ấn Độ (New Delhi). Iraq có 60% tín đồ theo giáo phái Shiite nhưng bị Saddam Hussein theo giáo phái Sunni đàn áp. Từ 1979, chế độ Saddam đã sát hại nhiều trăm ngàn tín đồ Shiite cực đoan theo báo cáo của Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (Houston Chronicle, Sunday May 18-2003, page 23A).