Thứ Năm, 23 tháng 2, 2017
Thứ Hai, 13 tháng 2, 2017
LẠM BÀN VỀ CHỮ "ĂN"
Trống rỗng cồn cào, gạo vừa hết
Biết có chi, Ăn đở đói lòng
Đang khi tẩn ngẩn, tần ngần
Tiếng rao ngoài phố: Ai Ăn bánh mỳ ?
Tôi nghe thấy, cười khì một cái,
Chữ Ăn rồi, nghe lộn hay sao ?
Chữ Ăn ý nghĩa dồi dào,
Tha hồ thêu dệt nghêu ngao, ỡm ờ.
Bị Ăn cắp, ngồi trơ mắt ếch,
Vì Ăn tham nên mếch lòng nhau.
Ăn thua vang vẻ gì đâu ?
Ăn gian, Ăn lận của nhau bấy rầy.
Người túng bấn Ăn vay từng bữa,
Kẻ giàu sang Ăn bửa từng xu.
Ăn chơi quen thói lu bù,
Ăn tiền hối lộ như Vu (Vous) mới là.
Ông ốm nghén vì bà Ăn rở,
Cậu đi tu để mợ Ăn chay.
Trước khi Ăn tiệc mày đay,(Médaille)
Học cho biết cách Ăn mày huy chương.
Chồng cặm cụi Ăn lương nhà nước,
Vợ ung dung hút thuốc Ăn trầu.
Tổ tôm, ông phải ngồi chầu,
Cài khàn không phỗng mặc dầu bà Ăn.
Mong chóng đến ngày Xuân: Ăn Tết,
Vợ chồng ai Ăn kết xe điều.
Bánh chưng, bánh tét cho nhiều,
Để dành Ăn giỗ bao nhiêu cho vừa.
Ba ngày Tết, Ăn bừa, Ăn bãi,
Tết xong rồi họ lại Ăn chơi.
Khi âm nhạc, lúc cờ người,
Nhạc thời Ăn nhịp, cờ thời Ăn quân.
Người lao động cởi trần, Ăn nắng,
Khách phòng khuê da trắng như ngà
Thiên nhiên sẵn đúc một toà
Để mà Ăn tục, chẳng ma nào thèm.
Vãi nào vãi Ăn khem suốt tháng,
Sư nào sư Ăn mặn quanh năm.
Ăn ngồi rồi lại Ăn nằm,
Ăn kham mặc khổ, Quan âm độ trì.
Ăn hương hoả thiếu gì sung sướng,
Ăn hoa hồng, tôi tưởng bền hơn.
Ăn thề là để rửa hờn,
Nhân dân đầy đủ, giang sơn vững vàng.
Kẻ xấu thói Ăn lường, Ăn lận,
Người quen mùi Ăn bẩn, Ăn bây,
Ăn lời, Ăn lãi không đầy,
Bụng ta cũng vậy, bụng Tây khác gì ?
Người Ăn xổi, ở thì vô số,
Kẻ Ăn không nói dối khôn lường,
Ăn non lại được Ăn già,
Ăn bây cờ bạc mới là người ngoan.
Ai chẳng biết làm quan Ăn lễ,
Ai không hay lính lệ Ăn bòn,
Ăn quèo, Ăn quịt mới ngon,
Ăn quanh, Ăn quẩn hãy còn ngô nghê.
Ăn lót dạ tỉ tê rồi đói,
Ăn thông lưng sành sỏi càng no,
Ăn chung đổ lộn tự do,
Ăn cầm chừng để vừa cho có chừng.
Trai cướp vợ Ăn mừng ỏm tỏi,
Gái tranh chồng Ăn hỏi linh đình.
Ăn thua có một chữ tình,
Để người Ăn cắp rồi mình Ăn năn.
Biết có chi, Ăn đở đói lòng
Đang khi tẩn ngẩn, tần ngần
Tiếng rao ngoài phố: Ai Ăn bánh mỳ ?
Tôi nghe thấy, cười khì một cái,
Chữ Ăn rồi, nghe lộn hay sao ?
Chữ Ăn ý nghĩa dồi dào,
Tha hồ thêu dệt nghêu ngao, ỡm ờ.
Bị Ăn cắp, ngồi trơ mắt ếch,
Vì Ăn tham nên mếch lòng nhau.
Ăn thua vang vẻ gì đâu ?
Ăn gian, Ăn lận của nhau bấy rầy.
Người túng bấn Ăn vay từng bữa,
Kẻ giàu sang Ăn bửa từng xu.
Ăn chơi quen thói lu bù,
Ăn tiền hối lộ như Vu (Vous) mới là.
Ông ốm nghén vì bà Ăn rở,
Cậu đi tu để mợ Ăn chay.
Trước khi Ăn tiệc mày đay,(Médaille)
Học cho biết cách Ăn mày huy chương.
Chồng cặm cụi Ăn lương nhà nước,
Vợ ung dung hút thuốc Ăn trầu.
Tổ tôm, ông phải ngồi chầu,
Cài khàn không phỗng mặc dầu bà Ăn.
Mong chóng đến ngày Xuân: Ăn Tết,
Vợ chồng ai Ăn kết xe điều.
Bánh chưng, bánh tét cho nhiều,
Để dành Ăn giỗ bao nhiêu cho vừa.
Ba ngày Tết, Ăn bừa, Ăn bãi,
Tết xong rồi họ lại Ăn chơi.
Khi âm nhạc, lúc cờ người,
Nhạc thời Ăn nhịp, cờ thời Ăn quân.
Người lao động cởi trần, Ăn nắng,
Khách phòng khuê da trắng như ngà
Thiên nhiên sẵn đúc một toà
Để mà Ăn tục, chẳng ma nào thèm.
Vãi nào vãi Ăn khem suốt tháng,
Sư nào sư Ăn mặn quanh năm.
Ăn ngồi rồi lại Ăn nằm,
Ăn kham mặc khổ, Quan âm độ trì.
Ăn hương hoả thiếu gì sung sướng,
Ăn hoa hồng, tôi tưởng bền hơn.
Ăn thề là để rửa hờn,
Nhân dân đầy đủ, giang sơn vững vàng.
Kẻ xấu thói Ăn lường, Ăn lận,
Người quen mùi Ăn bẩn, Ăn bây,
Ăn lời, Ăn lãi không đầy,
Bụng ta cũng vậy, bụng Tây khác gì ?
Người Ăn xổi, ở thì vô số,
Kẻ Ăn không nói dối khôn lường,
Ăn non lại được Ăn già,
Ăn bây cờ bạc mới là người ngoan.
Ai chẳng biết làm quan Ăn lễ,
Ai không hay lính lệ Ăn bòn,
Ăn quèo, Ăn quịt mới ngon,
Ăn quanh, Ăn quẩn hãy còn ngô nghê.
Ăn lót dạ tỉ tê rồi đói,
Ăn thông lưng sành sỏi càng no,
Ăn chung đổ lộn tự do,
Ăn cầm chừng để vừa cho có chừng.
Trai cướp vợ Ăn mừng ỏm tỏi,
Gái tranh chồng Ăn hỏi linh đình.
Ăn thua có một chữ tình,
Để người Ăn cắp rồi mình Ăn năn.
Thời tiền sử, loài người lúc đó còn sinh sống trong tình trạng ăn lông ở lỗ. Họ đi thành từng bầy để hái lượm, đào bới củ cây và săn bắn thú vật để sinh sống. Công cụ của họ còn rất thô sơ, chỉ bằng những khúc cây vót nhọn và đá được đập mài sắc cạnh, dùng để săn mồi. Lúc ấy chưa có lửa nên cuộc sống của họ hoang dã. Đêm đến, cả bầy kéo nhau vào hang sâu để ở. Sáng ra bắt được con thú nào họ nuốt sống ăn tươi hết cả lông, da. Một bộ tộc như thế người ta gọi là bầy người nguyên thủy, con người chỉ biết ăn tươi nuốt sống bất cứ cái gì có thể ăn khi kiếm được, vì thế mà hầu như không có sự phân biệt giữa những con người hoang sơ với nhau về ăn. Nhưng kể từ khi con người văn minh và tiến bộ hơn, nhờ biết sản xuất, chế biến và dự trữ thức ăn thì tùy theo môi trường, hoàn cảnh và điều kiện của mỗi cá nhân mà cùng là con người sống chung trong một xã hội, nhưng người thì ăn cơm, kẻ ăn khoai; người ăn ngon, kẻ ăn dở, người ăn no, kẻ ăn đói v.v...
Rồi cũng vì biết so sánh về những sự cách biệt đó mà con người mới tìm cách làm sao cho mình có thể được ăn những thứ tốt hơn, ngon hơn và được ăn no hơn, ăn nhiều hơn kẻ khác. Chính vì thế mà cách sinh hoạt của con người tuy có thay đổi, nhưng xét cho cùng ra thì cũng chỉ xoay quanh cái việc ăn vì có ăn thì mới sống cho nên trong ngôn ngữ Việt, tiếng ăn thường được dùng để ghép chung với những từ khác để diễn đạt không biết bao hình thái sinh hoạt khác nhau của con người.
Trước tiên, vì con người có óc tổ chức nên biết ấn định ra những thời biểu dành cho việc ăn để không làm trở ngại cho các hoạt động mưu sinh cho nên mới có sự phân biệt nào là ăn sáng, ăn trưa, ăn xế, ăn chiều, ăn tối, ăn khuya... Rồi tùy theo số lượng thực phẩm mà người ta ấn định để ăn vào bụng theo những thời biểu khác nhau đó mà người ta nói là ăn lót lòng, ăn chính, ăn dặm...
Tuy đã chia cái việc ăn ra thành có giờ có giấc, nhưng có nhiều người thấy ăn theo bữa vẫn chưa thỏa mãn cái tính thèm ăn nên mới ăn lắt nhắt thêm bất cứ lúc nào thấy thèm. Ăn như thế gọi là ăn vặt. Còn những người hễ thấy hàng quà hàng bánh là nhào vô mua ăn liền thì gọi là ăn quà. Cái khoản này thì chỉ các bà các cô mới là kẻ rành hơn ai cả. Nói lên điều này không phải vì tôi có thành kiến gì với phái nữ nhưng tại vì ca dao từng có câu: chưa đi đến chợ đã lo ăn quà, nên tôi muốn mình cũng phải lý luận theo cho đúng sự nhận xét khôn ngoan của ông cha ta truyền lại thế thôi.
Vì ăn là một hành động thường lôi kéo thêm vài hành động khác đi kèm theo như ăn thì phải uống cho nên người ta mới nói là ăn uống. Tuy nhiên thay vì uống nước lã, nhiều người lại thay vào đấy những chất có đặc tính kích thích vị giác như la de, rượu tây, rượu đế... để tăng thêm phần khoái khẩu cho việc ăn nên người ta bảo là ăn nhậu. Nhưng chưa hết, nhiều người nhậu đã phải tạm ngưng để thở mà chỉ thở suông thì cũng chán mới châm thêm điếu thuốc để phì phà cho vui miệng nên người ta mới gọi là ăn hút. Rồi cũng nhờ có ăn thì mới có hơi sức để nói nên thích nói và hay nói nên nói hay, nói nhiều, nói mạnh, chứ đói thì chỉ có nước nằm co, nên người ta bảo là ăn nói.
Sau khi no nê đã đời thì người ta lại đâm ra rậm rật nên mới xoay ra đi tìm đối tượng để giải quyết cái nhu cầu tiếp theo đó cho thỏa mãn hết mọi cái thú ở đời nên người ta mới bảo là ăn chơi. Ở đây, xin nói thêm là cái từ ăn chơi này ngoài cái nghĩa vừa nói trên, còn có nghĩa là ăn lai rai chút đỉnh cái gì đó cho đỡ buồn miệng trong khi chờ đợi ăn các món chính trong những bữa ăn lớn kéo dài nhiều tiếng đồng hồ. Ngoài ra tiếng ăn chơi cũng có khi biểu lộ một hành động giả bộ như trường hợp con nít lấy đất sét nặn thành bánh rồi giả vờ ăn cho vui vì biết cái đó không ăn được. Cũng có khi tiếng ăn chơi dùng để diễn tả cái ý phải biết kiềm chế hành động ăn vì tuy là món ăn đó ăn rất được nhưng mình lại không phải là đối tượng được ăn, chẳng hạn khi người khác đang ăn chợt thấy mình xuất hiện nên phải mời lơi thì mình dù muốn ăn cách mấy cũng chỉ nên ăn chơi thôi,nghĩa là ăn lấy thảo,chứ đừng ăn lấy no lấy béo mà đau lòng chủ.
Ngoài cái việc ăn thông thường hàng ngày hàng bữa, con người còn muốn có nhiều cơ hội để mà tụ họp nhau lại cùng ăn ngon hơn, ăn nhiều hơn và vui hơn nên mới đặt ra những cái lệ để cho mình tổ chức ăn. Trong phạm vi cá nhân hay gia đình thì người ta bày ra chuyện ăn tiệc, ăn mừng, ăn khao: từ ăn đầy tháng, ăn thôi nôi, ăn sinh nhật, ăn đám cưới đám hỏi, ăn thượng thọ cho tới đủ thứ ăn mừng như ăn mừng tân gia, khai trương công việc; hoặc ăn khao thi đỗ, khao lên lương, lên chức... nghĩa là bất cứ trường hợp nào mà người ta có thể vin vào đó như là một cái cớ để tụ họp ăn uống khác biệt hơn ngày thường là tha hồ ăn khao, ăn mừng.
Ở mức độ tập thể thì có những cuộc ăn liên hoan của cơ quan hay đơn vị để mừng đủ thứ chuyện. Ngay cả công ty sắp sập tiệm người ta cũng họp nhau ăn uống để sáng ý ra mà tìm cách gỡ gạc lẫn nhau. Các hội đoàn ái hữu thì ăn tiệc để thắt chặt tình tương thân tương ái hay mừng nhau sau một cơn tan tác lại còn có dịp thấy mặt nhau để mà kể lể những chuyện không còn nơi nào khác để kể. Chung cho cả quốc gia dân tộc thì người ta bày ra cái gọi là ăn tết. Tháng giêng ăn Tết ở nhà mà vẫn chưa đủ nên người ta lại chế ra những tết nhỏ như ăn tết Ðoan ngọ, tết Trung thu... để có dịp đua nhau ăn.
Tuy đã bày ra mấy cái Tết rồi mà thấy vẫn chưa thỏa mãn nên người ta lại đặt thêm các ngày lễ, ngày hội để ăn mừng. Ở cấp địa phương thì có hội làng, lễ khánh thành ngôi chùa này, nhà thờ kia. Lên cấp quốc gia thì có lễ Quốc khánh, lễ kỷ niệm vị anh hùng này, trận chiến thắng nọ để mà cùng nhau ăn mừng. Cao hơn nữa và lan rộng ra cả thế giới thì có những cuộc lễ vĩ đại mang tính chất tôn giáo để cho muôn dân cùng ăn mừng một loạt như ăn lễ Giáng sinh, ăn lễ Phật Ðản v.v...
Vui người ta nghĩ đến ăn đã đành mà buồn người ta cũng nghĩ đến ăn cho nên ngay cả khi bị thiên tai, hoạn nạn, đám ma, đám giỗ, người ta cũng cần phải có ăn thì mới thành đám cho nên mới bày ra trò cúng kiếng để cầu thần thánh ban ơn hay là để cho người chết cũng được no đủ. Nhưng đã là thần thánh thì đâu màng tới cái ăn, còn người chết rồi thì làm sao mà ăn được nữa cho nên những món thực phẩm bày ra để cúng kiến đó tất nhiên là người sống tha hồ mà hưởng và người ta gọi đó là ăn cúng, ăn giỗ.
Khi người ta chịu khó ra chợ mua thực phẩm đem về nhà nấu nướng rồi ăn thì người ta gọi là ăn nhà. Những người không thích chuyện bếp núc mất thì giờ bèn tới bữa thì ghé hàng ghé quán mà ăn luôn cho tiện việc thì gọi là ăn tiệm, ăn quán. Nhiều người ăn mãi cơm nhà hoài cũng chán hay bỏ tiền ra ăn tiệm hoài cũng tiếc tiền nên nhiều lúc chỉ mong cho có ai đó mời mình đi ăn hay bao mình ăn thì gọi là ăn khách, hay chờ người ta dọn sẵn mình xía vô gọi là ăn chực.
Ăn khách còn có nghĩa là được nhiều người hâm mộ hay mê thích như tuồng cải lương này ăn khách, món nhậu nọ ăn khách. Thời tiền chiến có nhà thơ Tản Ðà vừa hay thơ mà cũng nổi tiếng là sành ăn uống. Có lẽ thấy sành ăn cũng là một nghệ thuật phụng sự nhân sinh đáng đề cao nên thời miền Nam vừa thoát cảnh nô lệ mấy ông Tây thực dân thì chính quyền Ngô Ðình Diệm bấy giờ bèn cho thực hiện ngay việc đổi tên các đường phố, Hội đồng Ðô thành Sài gòn lúc ấy thấy trong Chợ Lớn có một con đường mà từ trong tiệm ra tới lề đường chỉ toàn kinh doanh có một ngành ăn uống bèn đặt tên luôn cho con đường này là đường Tản Ðà. Có điều nếu có ai đó cắc cớ hỏi những người làm ăn buôn bán ở con đường đó có biết Tản Ðà là ai không thì câu trả lời chắc chắn sẽ là "Ngộ hổng piếc". Mà đúng thế thật. Ðã là "ngộ" thì chỉ cần biết mấy món đồ ăn của "ngộ" làm ra ăn khách và "ngộ" hốt bạc là đủ rồi.
Chính vì ăn là cái mục đích tối hậu nên ngay cả cái động từ làm cũng được ghép với tiếng ăn để thành ra tiếng ăn làm. Rồi khi nói đến những nhu cầu phụ thuộc nhằm tăng thêm tiện nghi cho cuộc sống con người như vấn đề trang phục người ta cũng nói là ăn mặc, vì có dư ăn thì mới nghĩ đến chuyện mặc chứ bụng mà đói thì quần áo cũng đem đi cầm. Tục ngữ cũng có câu: Ăn đói mặc rách. Ðã đói thì nhất định là phải rách. Rồi tới cái nhà dùng làm chỗ che mưa đụt nắng cũng được gọi là nơi ăn ở. Thậm chí trong cái việc vợ chồng sống chung thì cũng phải có ăn rồi người ta mới có thể âu yếm ngủ chung giường với nhau nên người ta cũng gọi đó là ăn nằm.
Cũng giống như cái mặc, cái ở cũng tùy thuộc sau cái ăn cho nên nếu dư ăn dư để thì mới có nhà. Càng dư ăn thì nhà càng cao càng đẹp. Lỡ khi hoạn nạn, biến cố hay thất nghiệp không có tiền ăn thì có nhà cũng phải đem bán. Cũng trong cái mục ăn ở, khi gia đình hoà thuận thì mọi người trong nhà ai cũng thích ăn chung cho tình gia đình thêm đầm ấm, nhưng nếu lỡ mà sinh sự ra rồi thì mạnh người nào người nấy ăn cho nên người ta lại thích ăn riêng để đỡ phải nhìn mặt nhau mà anh ách ở trong lòng.
Người không có cơm ăn không có nhà ở phải mang cái thân trần trụi tìm đến bà con bạn bè xin tá túc thì được gọi là ăn nhờ ở đậu. Làm thân ăn gửi nằm nhờ thì nhiều khi chỉ dám ăn thừa, ăn mót và lúc nào cũng cố tìm đủ mọi cách để lấy lòng nhà chủ, nhưng nhà chủ chưa lấy làm hài lòng nên hở ra là mắng đồ ăn bám, ăn báp.
Những người thuộc loại vô tích sự lại chỉ thích ăn không ngồi rồi thì khi thấy nhà người khác có chuyện vui và có ăn, thường mò tới chầu rìa rồi làm bộ xum xoe để được ăn nhưng khi gia chủ cần họ giúp một việc gì thì chỉ tổ làm hỏng việc hoặc khi gia chủ bị hoạn nạn thì họ lại nhanh chân chuồn gấp bỏ mặc gia chủ bơ vơ thì được gọi là ăn hại.
Những người lương tháng ba cọc ba đồng mà ưa ngồi hàng ngồi quán thì thường chưa hết tháng đã cạn túi bèn xoay ra ăn xong ghi sổ nợ chờ đến ngày lãnh lương thanh toán. Ăn như thế gọi là ăn chịu. Có người túi không tiền nhưng cũng vào hàng quán gọi đủ thứ ăn nhậu đã đời rồi tìm cách chuồn êm thì được gọi là ăn quịt. Cũng có người hễ thấy đâu có ăn free hay thấy người khác ăn uống thì cứ đứng xớ rớ bắt chuyện làm quen chờ người ta bảo ăn thì nhào vào ăn lấy ăn để. Ăn như thế thì được gọi là ăn chực.
Thân phận con người là có làm mới có ăn cho nên khi một người chỉ phải bỏ sức lao động ra làm việc cho người khác để lãnh tiền công thì được gọi là ăn công. Những người làm nghề buôn bán thì phải làm sao cho số doanh thu lớn hơn cái vốn bỏ ra lúc đầu, để có được một số tiền thặng dư gọi là lời cho mình ăn tiêu nên người ta gọi là ăn lời. Những người thích buôn bán mà không có vốn nên chỉ biết làm trung gian môi giới giữa người có hàng bán và người cần hàng mua rồi dựa trên trị giá hàng hai bên mua bán được với nhau để mà ăn tiền tính theo tỷ lệ phần trăm thì gọi là ăn hoa hồng. Còn khi nhiều người cùng hùn hạp làm ăn chung với nhau để rồi cùng chia cái lời đó mà ăn thì người ta gọi là ăn chia. Tuy nhiên khi một kẻ thấy có món ngon ăn và dễ xơi thì chỉ muốn ăn một mình bèn tìm cách xé lẻ để cho mình ăn trọn thì được gọi là ăn mảnh.
Ði làm cho hãng hay cho nhà nước thì ăn lương. Có nhiều người thấy chỉ ăn lương nhà nước thì chưa đủ cho mình xài nên thấy công qũy sẵn tiền bèn ngứa mắt tìm cách moi móc cho vào túi riêng nên được gọi là ăn đục, ăn khoét. Có người thì nhờ nắm giữ những chức vụ có điều kiện để ban phát ân huệ cho người khác như cấp giấy tờ, cho việc làm thì cũng được nhiều người vì muốn được việc cho mình tìm đến đút lót cho ăn để xin xỏ, cầu cạnh. Ăn như thế này được gọi là ăn hối lộ.
Trường hợp không có phương tiện hay cơ hội để ăn đút ăn lót của người ngoài thì người ta tìm cách ăn xén, ăn chận người dưới mình như quan ăn chận lương lính, thủ trưởng ăn xén lương nhân viên. Ngay cả cơm tù đã quá tệ mà nhiều khi vẫn còn bị đám cai tù ăn bớt như thường. Ăn như thế này tục ngữ nói là ăn hớt cơm chim. Ngược lại người làm công hay cấp dưới cũng có thể tìm cách ăn bòn, ăn rút, của chủ. Những cách ăn theo kiểu này nói chung lại đều là ăn bẩn.
Người làm nghề tự do thì lại kiếm thêm bổng lợi cho mình bằng cách tính toán sai lệch nhằm mang thêm phần lợi cho mình nên được gọi là ăn gian, ăn lận. Do sự ăn gian ăn lận này mà nảy sinh ra những tiếng ghép về ăn nghe rất lạ tai như là ăn vải, ăn xi măng, ăn sắt, ăn đá... tùy theo ngành nghề của người đó. Làm thợ may thì ăn gian vải nên người ta bảo thợ may thì ăn vải. Nhà thầu xây cất thì ăn gian vật liệu cho nên người ta mới gọi là ăn xi măng, ăn sắt... toàn là những thứ nhai không được mà người ta vẫn có thể nuốt trôi như thường mới là tài. Ngay cả funds (qũy) của các hội đoàn thiện nguyện do đồng bào đóng góp hay chính phủ tài trợ để làm những việc cứu tế từ thiện cho người nghèo, người bị thiên tai v.v... cũng bị người ta bùa phép thành của riêng bỏ túi cho mình ăn xài nên người độc miệng mới gọi ăn như thế là ăn phân.
Tuy ai cũng làm để có ăn nhưng có người may mắn thì ăn nên làm ra còn nhiều kẻ đã ăn tằn ăn tiện mà vẫn không đủ ăn. Những người mà ăn bữa sáng lo bữa tối, chạy ăn từng bữa như thế thường được người ta gọi là ăn đong. Có người đã phải làm vất vả rồi mà vẫn không có đủ gạo nấu cho đầy nồi cơm đành phải dặm thêm mớ khoai, mớ củ mì vào cho đầy cái nồi để ăn cho đủ no thì được gọi là ăn độn. Rồi vì thiếu ăn cho nên càng thèm ăn và cái thèm ăn triền miên này thôi thúc mà có người hễ thấy đồ ăn của người khác để hớ hênh thì lén lấy ăn liền nên người ta bảo là ăn chùng, ăn vụng.
Cái tiếng ăn vụng này còn được hiểu rộng ra để chỉ mấy ông bà vì quá no cơm ấm cật nên rậm rật hơi nhiều thành thử tuy đã có vợ, có chồng nhưng chê đồ nhà không ngon bèn lén vợ lén chồng đi tìm vui với đào với kép. Thường thì đào kép rủ nhau đi ăn vụng bao giờ cũng có kèm theo màn ăn uống thực sự cho nên khi câu chuyện ăn vụng của họ bị đổ bể ra làm đề tài cho dư luận đàm tiếu thì tùy theo hôm đó họ đưa nhau đi ăn cái gì mà thiên hạ dùng luôn cái món họ ăn hôm đó để mô tả cho tiện như là tuần trước ông nọ đưa bà kia đi ăn chè ở Nhà Bè, ăn nem Thủ Ðức ... chẳng hạn. Ăn vụng kiểu này mà lỡ bị sư tử Hà đông bắt gặp hay ông nhà trông thấy là thế nào cũng bị ăn đòn. Nhẹ ra thì miệng mũi cũng ăn trầu, còn dữ dằn hơn nữa thì không làm sao kể xiết.
Cái chuyện ăn mà không phải là ăn và chỉ có kẻ cho ăn mới là kẻ thỏa mãn, còn người được ăn hay bị ăn bao giờ cũng đau khổ mà nhận lấy, thì ngoài chuyện ăn đòn mà hầu như ai từ nhỏ tới lớn cũng đã từng trải qua, còn có nhiều thứ ăn khác nữa: Ra đường ghẹo gái mà gặp nhằm cọp cái thì chắc chắn là sẽ được ăn tát. Ra đời mà đụng chạm thì sẽ có những lần, ăn đấm ăn thoi cho tới ăn dao, ăn đạn. Ấy là chưa kể có những người mà nghề nghiệp bắt buộc họ trở thành cái mục tiêu ăn dao ăn đạn như mấy người trót phải theo nghiệp binh đao.
Mặc dầu muốn có ăn thì phải làm nhưng cũng có những người không thích lao động làm ra của cải cho mình mà chỉ thích lấy cái có sẵn của người khác để dùng. Ở mức độ nhẹ thì có ăn cắp. Bạo hơn chút nữa là ăn trộm vì còn biết sợ khổ chủ hay nhân viên an ninh trông thấy thì bị tóm. Ðối với những tay chịu chơi hết mình, không còn nể nang luật pháp xã hội nữa mà ngang nhiên dùng vũ khí để uy hiếp kẻ khác đưa tiền cho mình xài thì được gọi là ăn cướp. Muốn ăn cướp lớn thì cần phải lập thành băng đảng để hành động cho hữu hiệu nên những kẻ trong băng đảng đều phải ăn thề để không một thành viên nào dám phản bội, vì chỉ cần một kẻ phản bội là đủ cho cả lũ rũ xác trong tù.
Có một con đường được coi như là khá lương thiện xưa nay vẫn giúp cho người ta có thể sau này vừa vinh thân vừa phì gia là con đường học vấn. Nhưng muốn học thì cũng phải ăn cái đã cho nên người ta mới bảo là ăn học. Tục ngữ cũng có câu: ăn vóc học hay. Cũng vì thế mà thường thì cha mẹ có đủ ăn hay dư ăn rồi mới có thể cho con đi học. Tuy nhiên có nhiều cô cậu thừa phương tiện ăn để học thì lại không chịu ăn học cho thành tài để giúp dân giúp nước mà chỉ biết ăn xài với lại ăn chơi.
Trong các môn tiêu khiển mà con người bày ra cho người ta vui chơi thì cái môn cờ bạc là hấp dẫn nhất vì cờ bạc thì bao giờ cũng có ăn tiền. Những kẻ mà bản tính keo kiệt thì đôi khi có ghé vào sòng bài cũng chỉ nhằm mua vui chốc lát nên thích ké những người đánh lớn mà đang hên để mong họ thắng thì mình cũng được chia chút đỉnh nên chỉ là ăn ké. Người nào mà vừa ăn được chút đỉnh đã vội rút lui khỏi sòng bài vì sợ ngồi dai thua lại hết tiền thì được gọi là ăn non. Tuy nhiên những tay có máu mê cờ bạc thì lúc nào cũng chỉ muốn ăn thua đủ cho nên lỡ mà thần may mắn không chiếu cố tất nhiên có ngày phải sạt nghiệp đến mức không còn một đồng mua bánh mì gặm cho đỡ đói đành phải đi xin ăn nên được gọi là ăn xin, ăn mày.
Mặc dù trong việc làm ăn thì tất cả ngành nghề gì cũng thu nhận nam và nữ, duy có một nghề bán hoa ái tình thì chỉ dành riêng cho phái nữ mà thôi. Ðây là một công việc làm ăn chẳng lấy gì làm vinh quang nhưng ở những nước hay nói đến vinh quang lại là những nước có nhiều chị em ta làm cái nghề này hơn cả. Lý do xui chị em ta chọn cái nghề này là thuộc phạm vi tìm hiểu của nhà xã hội học, tôi không dám lạm bàn. Ở đây tôi chỉ muốn nói là có những chị em ta kém may mắn không có cơ sở nào thâu nhận vào làm lâu dài thì cứ phải đêm đêm ra đứng lấp ló ở mấy gốc cây bên đường chờ đợi khách mua hoa để cho mình có tiền ăn thì được người ta gọi là ăn sương.
Vì con người thì càng ngày càng đông ra mà của ăn thì càng ngày càng khó hơn cho nên con người càng phải biết nhanh tay lẹ mắt chụp giật mới có ăn. Quy luật của sự ăn tranh, ăn giành, ăn giật là kẻ mạnh bao giờ cũng tìm cách ăn hiếp hay đè bẹp kẻ yếu để cho mình ăn chắc, hay nói khác đi là mình phải ăn người. Tiếng ăn người ở đây chỉ có nghĩa là hạ được người khác để chỉ còn lại mình được ăn chứ không phải coi thịt người như là một món thực phẩm rồi ăn như ăn thịt một con vật, mặc dù hiện tượng này không phải là không có. Các bộ lạc dã man ngày xưa vẫn thường coi món thịt người là món qúy và ngon nhất. Người văn minh thì không còn ăn thịt người nữa nhưng đôi khi vì quá cùng quẫn đành phải ăn cả thịt người như chuyện cha mẹ ăn thịt con vào thời xảy ra nạn đói khủng khiếp ở đồng bằng Bắc Việt vào năm Ất Dậu.
Từ cái chuyện tranh ăn và ham ăn mà có thêm cái hiện tượng ăn được và được ăn. Ăn được nói ở đây không có nghĩa là cái đồ ăn đó lành, không có tính độc làm hại đến sức khoẻ con người khi ăn vào bụng, mà có nghĩa là một người nào đó vì ham ăn nên ăn quá nhiều, ăn đến độ bộ máy tiêu hóa cũng trở thành tê liệt, nhưng cái bản chất đam mê ăn uống của người ấy vẫn không chừa nên hễ thấy của ăn hay người khác ăn thì tiếc mới mong cho mình cũng ăn được.
Ngoài ra Ca dao lại có câu liên quan đến sức khoẻ:
Ngoài ra Ca dao lại có câu liên quan đến sức khoẻ:
Ăn được ngủ được là tiên
Không ăn không ngủ là tiền vứt đi
Không ăn không ngủ là tiền vứt đi
Tuy nhiên ngược lại có những kẻ chỉ mong được ăn. Họ là những kẻ quá thiếu thốn vì không thể kiếm ra cái ăn hoặc bị kẻ khác tước đoạt mất cái ăn cho nên niềm mơ ước của họ là được ăn. Nắm được cái yếu điểm này của quần chúng đói rách mà có nhiều kẻ đã lợi dụng cái chiêu bài cơm no áo ấm để lôi kéo quần chúng làm cách mạng. Nhiều người vì tin tưởng vào cái chân lý ấy của cách mạng nên đã lăn xả vào kẻ bị coi là địch để mà ăn gan uống máu quân thù cho cách mạng sớm thành công nhưng khi cách mạng thành công thì mới nhận ra lâu nay mình chỉ làm kẻ hy sinh ăn bánh vẽ để cho mấy ngài "cách mạng" an vui thụ hưởng những tàn dư của kẻ thù.
Tại những nước từng làm cách mạng theo kiểu đó mà thành công thì nhờ có những đỉnh cao trí tuệ sáng suốt nghĩ ra mà nhân dân còn được ăn uống có chế độ gọi là ăn tiêu chuẩn. Người không có tiêu chuẩn ăn chính thức nhưng vì dựa vào mối liên hệ đúng trong quy định với một người có tiêu chuẩn để mà hưởng theo phần nào thì gọi là ăn theo. Các đỉnh cao trí tuệ lại còn tính toán tinh vi và khoa học để sáng tạo ra được cái lẽ công bằng là cấp cao phải ăn bếp nhỏ còn cấp thấp thì được ăn bếp to. Ðiều này mới nghe thì thật là hấp dẫn, nhưng phiền một nỗi là chỉ có bếp nhỏ nấu cho một hai người ăn mới có thể có chân giò heo hầm dược thảo, còn bếp to nấu chung cho cả làng cả tổng cùng ăn thì mở chảo ra chỉ thấy lỏng bỏng toàn là nước lã nấu với chân lý.
Cái tiếng được ăn còn được hiểu theo nghĩa được quyền ăn cho nên kẻ mong được ăn mà không có quyền ăn hay không được phép ăn mới nghĩ ra một cách đòi ăn gọi là ăn vạ, giống như khi đứa nhỏ thấy người lớn ăn một món gì đó mà không cho mình ăn hay có khi còn cấm mình ăn thì xoay ra làm nũng khóc lóc để đòi hỏi. Người lớn cũng thường xuyên ăn vạ lẫn nhau như hàng xóm ăn vạ láng giềng, công nhân ăn vạ giới chủ nhân... Trên bình diện quốc gia thì khi người dân mà cảm thấy mình bị áp bức quá cũng rủ nhau kéo đến cửa công ăn vạ chính quyền.
Trường hợp dân ăn vạ đòi hỏi những cái không lấy gì làm quá đáng thì cấp thẩm quyền có thể chỉ cần tuyên bố chờ "ngâm kíu" rồi đóng cửa nằm trong nhà ăn no ngủ kỹ mặc cho đám ăn vạ cứ ăn chực nằm chờ ngoài trời cho đến khi không còn đủ sức chịu đựng nữa phải cuốn chiếu ra về. Còn trường hợp dân ăn vạ quá đông và có nguy cơ làm đổ cả mấy cái ghế lãnh đạo thì cấp thẩm quyền vì quyết tâm bảo vệ chế độ cũng sẽ không ngần ngại gì mà không sai lính tới cho dân ăn lựu đạn cay hay có khi còn cho ăn luôn cả đạn thật để hết đòi hỏi lôi thôi.
Có lẽ vì cái ăn lúc nào cũng ám ảnh con người mà nhiều khi nói về sự vật người ta cũng dùng tiếng ăn cho nhiều trường hợp như khi người ta nói chiếc xe hơi này chạy ăn xăng, chiếc tàu nọ cặp bến để ăn hàng... rồi đến các hiện tượng thiên nhiên như nguyệt thực được gọi là mặt trăng ăn mặt trời, còn nhật thực là mặt trời ăn mặt trăng v.v... Những tiếng ăn dùng theo cách này cũng nhiều lắm nhưng vì không nằm trong nghĩa tiếng ăn chủ quan của con người nên tôi không muốn bàn đến. Duy có cái đường biên giới mới giữa nước ta và nước Tàu hiện nay đã ăn sang lãnh thổ nước ta thì cũng có liên hệ xa gần đến cái việc ăn của con người nên đang là vấn đề gây sôi nổi. Ðối với những người dân Việt yêu nước thì thấy đây là một vết thương đang ăn sâu vào lòng dân tộc nhưng đối với những kẻ có trách nhiệm trực tiếp về vấn đề này thì trót quen ăn trên ngồi trước nên không muốn lôi thôi về nó mà mất cái chỗ ngồi mát ăn bát vàng nên vẫn cứ ngậm miệng ăn tiền.
Vì nhận thức được cái sự đam mê ăn của con người là nguồn gốc của mọi sự sa đọa cũng như nguyên nhân của không biết bao nhiêu tranh chấp khiến cho con người trở nên hận thù, chinh chiến, tàn sát lẫn nhau nên từ xưa các nhà tôn giáo đã nghĩ ra phép ăn chay để cho tinh thần con người tỉnh táo ra mà biết sám hối. Ăn chay là phải kiêng ăn một số đồ ăn nào đó như người theo Phật giáo thì không được ăn các loài động vật. Thế nhưng nhiều người miệng thì nói ăn chay nhưng thực tế thì chỉ tìm cách ăn mặn và còn ăn bạo hơn cả người không bao giờ ăn chay. Có người thì tin theo giáo luật để khi ăn chay chỉ dùng rau quả ngũ cốc thôi nhưng vì cái ước muốn thèm thuồng những của ngon vật lạ trần gian vẫn chưa dứt bỏ cho nên mới chế ra gà quay chay, giò heo hầm chay v.v... để vẫn được ăn ngon mà không sợ phạm giới luật.
Người theo Thiên Chúa giáo thì khi giữ chay phải kiêng thịt và hạn chế số lượng thực phẩm đưa vào bao tử trong ngày đó cho nên có người mới chế ra cái trò canh đồng hồ: trước khi sắp bước vào ngày chay là họ đã lo ăn uống cho căng cả bụng lên để ngày ăn chay chỉ ăn qua loa đúng phép vẫn không đói. Chưa hết ngày chay thì đã lo sửa soạn sẵn các món ăn thật ngon, thật dồi dào để chờ đồng hồ vừa chỉ nhích qua ngày là an tâm chè chén mà không hề có một chút mặc cảm phạm tội nào.
Cũng vì thấy cái ăn lúc nào cũng ám ảnh con người và làm cho con người thành mê muội nên từ xưa trong ngôn ngữ Việt ông cha ta cũng còn dùng một tiếng ăn nữa cho dễ nhớ nhưng không nhằm chỉ hành động ăn theo nghĩa vật chất mà chỉ là một trạng thái tinh thần biết nhận ra những lỗi lầm sai trái trong suy nghĩ, lời nói và việc làm của mình để mà hối cải, tức là ăn năn.
Cái tiếng ăn này thì hình như chẳng có vẻ gì hấp dẫn hay thú vị đối với nhiều người nên rất nhiều người cứ tảng lờ đi như không biết. Tuy nhiên, những người nào mà trong quá khứ chỉ biết sống để ăn nên đã ăn quá nhiều, ăn đến ngập mày ngập mặt, ăn đến nỗi đâm ra lú lẫn quên hết mọi cái phải trái ở trên đời, ăn theo kiểu ăn gian làm dối, ăn cháo đái bát, ăn cây táo rào cây sung, ăn trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác, ăn trên sự đau khổ của đồng bào, ăn trên xương máu của nhân dân, cũng cần nên nhớ lại hai tiếng ăn năn này để mà chịu khó mỗi ngày biết ăn năn một chút thì may ra xã hội loài người mới không có ngày bị hủy diệt vì những con người trót bị sa đọa vì ăn.
Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2017
BẢO VẬT HOÀNG CUNG TRIỀU NGUYỄN
Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế (số 3 Lê Trực, TP Huế),lần đầu tiên tổ chức triển lãm lớn nhất, cho công chúng đến xem 64 bảo vật rất quý hiếm của Hoàng Cung triều Nguyễn, đã bị tẩu tán và nay quay lại cố hương.
Tháng 8/1945 sau khi vua Bảo Đại thoái vị, triều Nguyễn đã bàn giao hầu hết các báu vật còn lại của vương triều cho chính phủ lâm thời, toàn bộ số di sản này khoảng hơn 2.500 món, được đem ra Hà Nội và được bảo quản như thế nào không biết! mà hiện tại chỉ còn lại vài chục, vã lại thiệt giả chẳng hiểu thế nào! Điều đáng tiếc là bộ ấn kiếm tượng trưng cho quyền lực của hoàng đế (kim ấn Hoàng đế chi bảo nặng gần 10,5kg và chiếc kiếm chuôi vàng nạm ngọc) do sơ suất hay trao đổi mua bán, mà hiện nay vẫn ở trong tay người Pháp.
Năm 2007, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã bàn giao toàn bộ số hiện vật quý giá của triều Nguyễn cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (hiện là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia), trong đó có cả 85 chiếc kim bảo, ngọc tỷ được làm dưới thời chúa Nguyễn và vua Nguyễn.
Tại triển lãm "Bảo vật hoàng cung triều Nguyễn" dưới sự phối hợp của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, 64 bảo vật rất quý báu trong số 2.500 cổ vật từ ngày bị mang đi khỏi Hoàng Cung, sau 71 năm lưu lạc nay đã được trưng bày tại Huế, ra mắt mọi người dân cố đô lần đầu. Các cổ vật này phân thành 4 nhóm, quan trọng nhất nhóm này là sưu tập biểu tượng quyền lực với, ấn, kiếm, kim sách, mũ miện, thẻ bài. Trong đó, ấn, kiếm được coi là trọng khí của quốc gia, là vật bảo chứng cho sự hiện diện và xác nhận ý chí, mệnh lệnh của các vua triều Nguyễn.
Bảo vật hoàng cung triều Nguyễn về lại cố đô
Giới thiệu tại bộ sưu tập quyền lực vương triều nhà Nguyễn với các ấn, kiếm, mũ miện, thẻ bài, kim sách
Ba nhóm còn lại là sưu tập đồ thờ cúng và nghi lễ như đài thờ, mâm bồng, đỉnh trầm, chân nến…;sưu tập văn phòng tứ bảo với bút, nghiên, thủy trì, ống bút, chặn giấy…và sưu tập đồ dùng sinh hoạt như bát, dĩa, thìa, đĩa, bộ trà, lồng ấp, bộ trầu cau...Toàn bộ 64 báu vật đều đặc biệt và quý giá bởi chất liệu sáng chế như vàng, bạc, ngọc, đá quý, đồi mồi và cũng như nguồn gốc lịch sử của chúng.
Theo TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, trong khuôn khổ của chương trình hợp tác giữa Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Bảo tàng Lịch sử quốc gia từ năm 2015 đến nay đã có hai cuộc triển lãm: "Trang sức cổ Việt Nam" và "Kim bảo, kim sách triều Nguyễn" đã được tổ chức tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, giới thiệu các cổ vật quý hiếm của triều Nguyễn đến với công chúng. Tuy nhiên, phải đến cuộc triển lãm hôm nay, một số lượng khá lớn các bảo vật thiêng liêng của triều Nguyễn mới được đưa trở về Huế để người dân cố đô và du khách có dịp tận mắt chiêm ngưỡng.
Đây là lần đầu tiên Huế đón nhận số lượng lớn các bảo vật triều Nguyễn trở về cố đô. Trong các bảo vật được đưa về Huế hôm nay có những vật báu là "khí cụ của quốc gia", ngay cả các quan đại thần trong triều đình cũng ít ai được trông thấy. Đó là các bảo tỷ được truyền từ đời này sang đời khác, là vật biểu tượng cho tính chính thống và quyền lực tối cao của các hoàng đế triều Nguyễn.
Ngoài các loại kim ấn, bảo tỷ hoặc kim sách, các đồ dùng văn phòng tứ bảo hoặc vật dụng sinh hoạt phục vụ ẩm thực cung đình của hoàng gia triều Nguyễn cũng là những bảo vật được sáng chế tinh xảo và bằng các loại chất liệu quý hiếm như vàng, bạc, ngọc…thể hiện tính thẩm mỹ cao cũng như đời sống tinh thần phong phú của các hoàng đế triều Nguyễn.
Với 143 năm tồn tại, triều Nguyễn (1802-1945) để lại cho cố đô Huế một di sản đồ sộ bao gồm cả di sản vật chất và tinh thần có giá trị nổi bật toàn cầu.
Trong đó:
- Các di tích cố đô Huế được công nhận là Di sản văn hóa thế giới (1993)
- Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt Nam được vinh danh là Di sản Văn hóa về mặt tinh thần đại diện của Nhân loại (2003),
Ba Di sản tư liệu thế giới bao gồm:
- Mộc bản triều Nguyễn (2009)
- Châu bản triều Nguyễn (2014)
- Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (2016).
Bên cạnh đó, triều Nguyễn cũng là triều đại để lại một số lượng lớn nhất các bảo vật hoàng cung so với các triều đại quân chủ khác trong lịch sử dân tộc Việt.
Bảo vật hoàng cung triều Nguyễn:
Ấn "Quốc gia tín bảo" bằng vàng thời vua Gia Long (1802-1819) dùng cho các văn kiện triệu tập các tướng lĩnh, phát động binh sĩ, trưng binh nhập ngũ và các văn kiện hành chính quan trọng.
Ấn có cạnh 11,7 x 11,7cm, cao 9cm, dày 1,65cm.
- Ấn vàng dành cho Hoàng Thái Hậu mẹ vua Tự Đức.
- Ấn vàng mạ bạc dành Hoàng hậu Nam Phương vợ vua Bảo Đại.
- Ấn vàng mạ bạc dành cho Hoàng thái tử Bảo Long con vua Bảo Đại.
Ấn ngọc đời vua Thiệu Trị dùng cho những sắc mệnh ban cho các nước chư hầu, những việc ban bố cho thiên hạ.
- Ấn vàng mạ bạc dành Hoàng hậu Nam Phương vợ vua Bảo Đại.
- Ấn vàng mạ bạc dành cho Hoàng thái tử Bảo Long con vua Bảo Đại.
Ấn ngọc đời vua Thiệu Trị dùng cho những sắc mệnh ban cho các nước chư hầu, những việc ban bố cho thiên hạ.
Hai thanh kiếm
- kiếm làm bằng vàng, đồi mồi, ngọc (trên)
- "An dân bảo kiếm" của vua Khải Định bằng vàng, đồi mồi dài 90cm là biểu tượng của vương quyền, là trọng khí của quốc gia (dưới).
Nét tinh xảo của phần chuôi 2 thanh kiếm dành cho vua
Mũ bình thiên bằng vàng, đá quý, san hô. Chiếc mũ này được nhà vua đội vào dịp tế lễ Trời – Đất hàng năm ở đàn Nam Giao, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thiên hạ thái bình
Mặt trước và sau Mũ thượng triều bằng vàng, đá quý, san hô, kim sa cao 28,6cm, đường kính 26,6cm. Mũ được nhà vua dùng mỗi khi thiết triều, giải quyết các vấn đề lớn của quốc gia, thực hiện các nghi lễ khánh tiết của Nhà nước hoặc yết kiến sứ giả các nước bang giao, thực hiện các nghi lễ tôn miếu, tổ tông
Những con rồng vàng được gắn vào mũ sống động như thật
Kim sách "Đế hệ thi" bằng vàng với 13 tờ vàng, dài 23,2cm, rộng 13,7cm được đúc năm 1823 đời vua Minh Mạng. Sách chép 20 chữ bộ Nhật và bài ngự chế Đế hệ thi do hoàng đế Minh Mạng ban hành năm 1823. Với bài ngự chế này, vua mong muốn thế hệ sau truyền nối ngôi vua tới 20 đời, được 500 năm, nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở chữ Vĩnh tức đời thứ 5, do 11 vua nối tiếp thuộc cả chi khác hoặc thế hệ trước.
Hốt ngọc của nhà vua (nằm trên, là vật biểu tượng quyền lực của nhà vua, cầm trên tay khi thiết triều) và các thẻ bài Cơ mật đại thần bằng vàng dùng cho đại thần ở Viện Cơ mật, cơ quan đặc trách tham mưu những vấn đề quan trọng nhất của triều đình, đặc biệt là về quân sự thành lập năm 1834; thẻ bài Ngự tiền sắc mệnh bằng ngọc dùng cho quan Nội các ở bên dưới.
Đài thờ bằng vàng, ngọc, đá quý, san hô dùng đựng các lễ vật trong nghi lễ tế tự ở hoàng cung
Nét đẹp tinh xảo của các bảo vật hoàng cung
Chậu bằng ngọc bọc vàng, cẩn đá quý cao 10cm, đường kính 29cm dùng trong sinh hoạt của nhà vua
Bộ ấm chén và khay rượu bằng vàng dùng trong hoàng cung
Đỉnh thờ bằng vàng, cao 18cm, đường kính 8cm dùng để đốt trầm
Đỉnh thờ tinh xảo bằng bạc năm Khải Định thứ nhất 1916 dùng để đốt trầm trong các nghi lễ triều đình
Nghiên mực bằng ngọc và vàng, dùng để mài mực, mài son trong hoàng cung
Các bình và lọ ngọc dùng đựng hương liệu
Chân nến bằng vàng cao 25cm đường kính 11 cm dùng trong hoàng cung
Chén bằng ngọc bọc vàng và đôi đũa bằng ngọc dùng trong bữa ăn cung đình.
Muỗng bằng ngọc bọc vàng có cán bằng san hô dài 18,3cm dùng trong bữa ăn hoàng cung triều Nguyễn
Bộ đồ ăn trầu bằng vàng của vua hoặc hoàng hâu, gồm cối, chày giã, sêu, đinh ba…
Từ trái qua là lồng ấp bằng vàng dùng bỏ than vào sưởi ấm mùa đông, ống nhổ bằng vàng dùng đựng nước thừa và nước cốt trầu và hộp vàng dùng để đựng trầu cau.
Du khách đứng "ngỡ ngảng" trước những báu vật vàng son một thời tại kinh đô Huế.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)