Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

HÒA THƯỢNG THÍCH AN CHÁNH (1922-1991)

 


Hôm nay ngày 23 tháng 8 năm Giáp thìn (25-9-2024).

Nhân ngày lễ húy nhựt Hòa Thượng tôn sư Thích An Chánh lần thứ 33, chúng tôi xin được ghi lại sự nghiệp truyền thừa vẻ vang của chư vị Hòa thượng tiền bối ở vùng đất cao nguyên Trung phần. Với chúng tôi, đây là niềm tự hào của lớp con cháu tổ sư đã góp phần làm tươi sáng rạng rỡ đạo pháp của thiền phái ở vùng đất phố núi cao nguyên...
Hòa thượng Thích An Chánh, thế danh Trần Văn Sách, sinh năm 1922, tại thôn Cổ Phú, xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Vốn sinh trưởng trong gia đình Nho giáo, do mẹ mất sớm, nên khi lên 6 tuổi được gia đình cho vào chùa theo các thầy học chữ Nho từ rất sớm, vì thế khi lớn lên ngài được khen là uyên thâm nho học, đặc biệt hơn là tài năng viết chữ Hán, với đường nét sắc sảo khó có người sánh kịp.
Năm 1934, lúc lên 12 tuổi, được thế độ xuất gia học Phật với bổn sư là Hòa thượng Thích Trí Hưng tại chùa Sắc tứ Từ Lâm, xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, được Hòa thượng đặt pháp danh là Như Vinh. Là người đệ tử đầu tiên của Hòa thượng bổn sư có tư chất thông minh, cộng với sự hiếu học, chuyên cần nổi bật hơn các huynh đệ cùng thời, đặc biệt với vốn kiến thức Hán học nên khi tiếp xúc với kinh điển rất dễ dàng, sớm nổi danh là một tu sĩ tài giỏi xuất chúng.
Sau 7 năm học đạo, năm 1941, khi vừa tròn 20 tuổi, được thọ Tam đàn Cụ túc giới tại giới đàn chùa Sắc tứ Thạch Sơn, xã Nghĩa Phú, tỉnh Quảng Ngãi do Hòa thượng Diệu Nguyên làm Đàn đầu Hòa thượng. Sau khi thọ giới, thầy được bổn sư phú pháp tự là Giải Lộc, pháp hiệu An Chánh, nối pháp đời thứ 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 dòng thiền Chúc Thánh.
Năm 1938, Hội An Nam Phật Học tại Quảng Ngãi do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và bác sĩ Hoàng Mộng Lương chủ trương thành lập. Hội do bác sĩ Hoàng Mộng Lương làm Hội trưởng, ông Đại học sĩ triều Nguyễn là Lâm Tô Bích, pháp danh Thị Độc, làm Phó Hội trưởng, Giáo sư Phan Tiên làm Thư ký và hội “Cung thỉnh Đại lão Hòa thượng Hoằng Thạc, Tăng cang Diệu Quang và Hòa thượng Trí Hưng làm Chứng minh Đạo sư kiêm cố vấn đạo hạnh cho hội”, cũng trong bối cảnh này thầy có dịp theo làm thị giả cho Hòa thượng Hoằng Thạc và Hòa thượng bổn sư, nên có nhiều cơ hội tiếp xúc, học tập với nhiều vị danh tăng đương thời, trong lĩnh vực chấn hưng Phật giáo.
Năm 1945, theo sử liệu trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận thì “Từ Nam ra Bắc, Phật tử đủ các giới tham dự vào cách mạng. Các đoàn thể Tăng già Cứu quốc và Phật giáo Cứu quốc được thành lập khắp nơi”. Cùng năm này, báo Đuốc Tuệ của Việt minh ở miền Bắc lên tiếng kêu gọi Tăng ni các nơi mau mau lập đoàn Tăng già Cứu quốc, theo mục đích ấy mà tham gia vào công cuộc cách mạng hiện thời. Đặc biệt, bìa sau báo Đuốc Tuệ số 257-258 ra ngày 15.8.1945 đăng những khẩu hiệu và những lời kêu gọi tham gia kháng chiến:
“Ủng hộ chính quyền Nhân dân
Mau mau gia nhập Đội quân Giải phóng Việt Nam
Chống mọi cuộc xâm lăng
Việt Nam độc lập hoàn toàn
Hãy sửa soạn nghênh tiếp Chính phủ Lâm thời
và Đoàn quân Giải phóng sắp về tới nơi
Hãy đọc Cứu Quốc, cơ quan của Mặt trận Việt Minh”.
Đó là lời kêu gọi vì lòng yêu nước, vì tinh thần độc lập tự chủ của một dân tộc, chứ không phải xuất phát từ một phe phái chính trị nào, nên được Tăng ni và Phật tử nhiệt tình hưởng ứng. Vì thế, thầy cũng không ngoại lệ, từ khi tiếp xúc với những lời kêu gọi trên, ngài cũng tích cực tham gia trong Hội Phật giáo Cứu quốc Trung bộ và Thừa Thiên do Hòa thượng Trí Thủ và một số vị khác thành lập, thể hiện được tinh thần của một công dân yêu nước.
Tuy nhiên, con đường cách mạng không đơn giản như trên sách vở, mà “là một con đường đầy chông gai hiểm trở, không phải là những chông gai hiểm trở vật chất mà là những xót xa và rách nát của tâm hồn gây nên do áp lực phải lựa chọn. Dấn thân vào cách mạng bằng một tâm hồn trong trắng, chỉ trong vòng hai ba năm là tâm hồn ấy có thể rách nát, bầm tím và có khi chai sạn. Sự sai lầm là nguyên do gây ra thảm trạng này, hiện tượng cạnh tranh của các phe phái chính trị và tính cách bất khoan dung của các ý thức hệ”. Chính vì còn nhiều vấn đề không thể giải quyết được đó mà thầy đã buông bỏ tất cả, nhanh chóng trở lại chốn thiền môn, tiếp tục công cuộc tu hành phụng sự cho đạo pháp.

HÀNH ĐAO
Năm 1947, thầy tiếp tục theo Hòa thượng Trí Thủ tham gia trong phong trào phục hồi lại các cơ sở Phật giáo đã băng hoại của Hội An Nam Phật học tại Huế. Cuối năm 1947, thầy tham gia trong công tác chuẩn bị để tái khai giảng lớp Phật học tại Phật học đường Trung Việt (chùa Báo Quốc). Tại đây, thầy đã trải qua những ngày tháng chuyên tâm học tập giáo lý, nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm từ những vị tiền bối, để sau đó vào miền Nam hoạt động tại Phật học đường Lưỡng Xuyên (tỉnh Trà Vinh) trong 2 năm.
Nâm 1950, ngài trở lại Huế, ở tại chùa Báo Quốc. Cũng trong năm này, cụ Võ Chuẩn, nguyên là Thượng thư của triều đình nhà Nguyễn, vốn là người chủ trương thành lập và đứng ra thiết kế xây dựng chùa Bác Ái, trong thời gian công tác làm chức Quản đạo tỉnh Kon Tum từ năm 1933 đến 1938, sau khi xây xong thì được triều Nguyễn sắc phong “Sắc tứ Bác Ái Tự”. Trong 5 năm đầu tiên khi thành lập, ngôi chùa được Hòa thượng Hoằng Thông ở Bình Định cử thầy Từ Vân lên trông coi chùa trong giai đoạn này. Vì thế, thầy Từ Vân được coi như là vị đệ nhất trụ trì của chùa này vậy. Thầy Từ Vân, pháp danh Thị Niệm, pháp tự Từ Ân, nối dòng Lâm Tế đời thứ 42, thế hệ thứ 9 pháp phái Chúc Thánh.
Năm 1939, cụ Võ Chuẩn đã đại diện cho lời thỉnh cầu của bổn đạo, Phật tử tại tỉnh Kon Tum về Huế trình lên Hội Sơn Môn Tăng Già Trung Việt, lúc ấy do ngài Hòa thượng Trí Hưng làm Hội trưởng, với mục đích cung thỉnh một vị thầy có đủ tài đức để lên trụ trì chùa Bác Ái ở Kon Tum. Hòa thượng An Chánh là người được bổn sư tuyển chọn.
Đây là ngôi chùa được xây dựng sớm nhất trên vùng đất mới này, nơi mà người đồng bào thiểu số chưa từng biết thế nào là chùa, là Phật giáo, theo miêu tả trong sách “Người Bana ở Kon Tum” thì người lương (không có đạo Công giáo) mới xây dựng năm 1933 “một ngôi chùa kiểu cách rất ngộ nghĩnh gọi là chùa Bác Ái, có lẽ là ngôi chùa Annam đầu tiên ở phía Tây của dãy Trường Sơn”.
Tuy là người có hoài bão và nhiệt huyết trong phong trào chấn hưng Phật giáo, nhưng vì tinh thần phụng sự của một Sứ giả Như Lai, vì muốn đem ánh sáng của đức Phật đến với đồng bào Phật tử vùng cao nguyên Kontum, một tỉnh miền núi phía Tây dãy Trường Sơn với 80% dân số là người đồng bào thiểu số, mà thầy đành bỏ lại tất cả những công việc đang phụng sự tại Huế, chia tay chư huynh đệ, một mình đến nơi tận cùng biên giới phía Tây của đất nước để làm nhiệm vụ hoằng truyền chánh pháp của Như Lai.
Ngày 17/2/1950, thầy chính thức trụ trì chùa Bác Ái. Vì là vị Tăng duy nhất hoạt động dấn thân phụng sự trên mảnh đất xa xôi này, nên trách nhiệm vô cùng lớn lao, vừa làm Tăng trưởng tỉnh hội Kontum, kiêm nhiệm Trưởng Ban Hoằng pháp. Sự xuất hiện cấp thiết của thầy, cũng giống như sự cấp bách trong việc thành lập ngôi chùa vậy, vừa mang tính tôn giáo, nhân đạo, vừa thể hiện được sự khát khao của người dân nơi đây, “những người lương giáo (không công giáo) cũng xin phép lập một ngôi chùa, thờ Phật và quy y các vong linh những người chết mà thân thuộc không thể đem thi hài về xứ được, chùa ấy tên là chùa Linh Sơn. Công việc chia thành nhiều năm mới thành, thế rồi tháng 10 năm 1933 đã hoàn tất.
Trong khoảng thời gian 41 năm trụ trì, từ năm 1950 đến 1991, thầy đã quy y cho hàng vạn tín đồ Phật tử, thành lập tổ chức Gia đình Phật tử Bác Ái, nhiều lần trùng tu lại ngôi chùa bị hư hoại do nhiều cuộc chiến tranh tàn phá.
Năm 1952, Thầy trùng tu lại nhà Tổ, 1957 tu bổ nhà Đông. Trong đó nặng nhất là cuộc chiến năm 1968, vì chùa là nơi các chiến binh CS chiếm ần mình để hoạt động, nên chính quyền đương thời đã nhiều lần cho tấn công vào chùa, đã làm sập cổng tam quan, bể đại hồng chung, chánh điện hư hỏng nặng, và một số công trình phụ khác. Năm1968 là đại trùng tu, ngài đã đi khắp nơi vận động kinh phí, trùng tu lại chánh điện, thay lại tường đất bằng xi măng, cột kèo bằng gỗ, lợp lại ngói phần thượng điện…, riêng cổng tam quan xây mới lại theo kiến trúc cổng các chùa Bình Định, không theo kiểu cổ lầu như trước. Trong thời gian này, ngài làm lễ đúc đại hồng chung, đào giếng. Năm 1973, sửa lại lầu chuông, lầu trống, thay lại toàn bộ bằng gỗ.
Ngoài công việc xây dựng Tam bảo, thầy còn mở những lớp dạy học, những khóa thực tập cắm trại cho học sinh tiểu học tại khuôn viên chùa Bác Ái, để đưa các em thiếu nhi sớm được tiếp xúc với đạo Phật, tạo nên những ký ức đẹp trong tuổi thơ hồn nhiên của các cháu thiếu nhi và những kỷ niệm này khó có thể phai nhạt trong ký ức, đó cũng là một cách để đem đạo Phật đến với mọi người.
Đặc biệt, thầy còn mua nhiều ruộng đất để làm kinh tế nuôi dưỡng tăng chúng, mua đất xây dựng mới 3 ngôi chùa tại Kon Tum làm nơi tu học cho chư tăng và Phật tử tại địa phương, như chùa Hoa Nghiêm ở xã Phương Hòa (1959), chùa Pháp Hoa ở xã Hòa Bình (1967), chùa Phật Quang ở xã Phương Quý (1967).
Với học vấn uyên thâm, giới luật tinh chuyên, thầy được thỉnh mời tham gia trong thành phần ban chức sự giới đàn, làm Đệ nhị tôn chứng tại đại giới đàn tổ chức tại chùa Nghĩa Phương, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, năm 1957. Trong giới đàn này, Hòa thượng Huệ Pháp khai sơn chùa Minh Tịnh, tỉnh Bình Định, làm Đàn đầu hòa thượng.
Từ đó, vì mến mộ tài đức của của Hòa thượng An Chánh, Hòa thượng Huệ Pháp đã nhiều năm liền mời thầy về chùa Minh Tịnh làm giáo thọ sư giảng dạy nhiều lớp giáo lý cho chư Tăng ni và Phật tử từ năm 1957.
Năm 1969, thầy được tấn phong giáo phẩm Hòa thượng tại chùa Phước Long, Sài Gòn (nay thuộc phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh).
Tuy Phật sự đa đoan, nhưng thầy cũng dành thời gian tham gia dịch thuật kinh sách, viết bài nghiên cứu Phật học, những tác phẩm còn lại của thầy như: kinh Bác Đại Nhân Giác giảng giải, Cực lạc ngũ thanh, Lòng thương thể hiện, Ngày đại lễ Phật đản, Mừng Phật đản sanh, Kỷ niệm mừng Phật Thích Ca thành đạo, Tứ Niệm xứ quán, Lược sử đức Phật A Di Đà…, ngoài ra còn có những tác phẩm được soạn thảo bằng chữ Hán, do chính tay thầy viết với nét chữ vô cùng đặc biệt, ngay cả người Hoa cũng khó có thể viết như ngài, như: Sa Di Luật Giải, Lăng Nghiêm Thần Chú, Kim Kang Bát Nhã Ba La Mật kinh, Thọ Mạng Đà La Ni kinh, Hồng Danh kinh, Vu Lan kinh, Nhị Thời Khóa Tụng Cổ Đại Bổn…
Ngày 23 tháng 8 năm Tân Mùi (30-9-1991), sau bao năm phụng sự Phật pháp, sức khoẻ không còn sung mãn như tuổi đôi mươi, trong một cơn bạo bịnh, thầy thâu thần thị tịch tại chùa Bác Ái trong niềm tiếc thương vô hạn của đồng bào Phật tử. Thầy là một tấm gương sáng về tinh thần dấn thân phụng sự đạo pháp, bên cạnh đó còn là một người dân có tấm lòng yới đất nước nồng nàn. Ngài hưởng thọ 69 tuổi (1922-1991); 50 hạ lạp nhục thân (1941-1991), được nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa.
Trong di chúc thầy để lại lời nhắn nhủ dành cho bổn đạo Phật tử rằng ngoài việc phải tu tập thân khẩu ý tự hoàn thiện bản thân, thì phải ghi nhớ chùa Bác Ái là một di tích của Phật giáo Cổ Truyền tỉnh Kontum, chùa đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển đạo Pháp tại tỉnh nhà, cho nên Phật tử phải có trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn ngôi chùa này.

Đệ tử của thầy, kế vị trụ trì đời thứ 3 chùa Bác Ái là Hòa thượng Thích Chánh Quang, pháp danh Thị Chương, pháp Tâm Huệ, nối pháp dòng Lâm Tế đời thứ 42, thế hệ thứ 9 dòng Chúc Thánh. Hòa thượng là thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, sinh năm 1945, hiện đã 75 tuổi.

Trụ trì đời thứ 4 là Đại đức Thích Đồng Trí, nối pháp dòng Chúc Thánh đời thứ 10, thầy là đệ tử của Hòa thượng Chánh Quang, cũng là người nhận thừa kế di chúc kế thừa chùa Bác Ái vào năm 2018....


Nguyễn Kim Sâm NGÀI MẤT 23/ 8/ÂL ( 1991) Thúy Tiễn Lê Ngài đã mất 33 năm 1991 - 2024 Bài viết ý nghĩa, có Tâm, có Tầm, cảm ơn tác giả

Đông Lợi Long Cảm ơn Thúy Tiễn Lê, cầu mong vạn sự hạnh thông trong cuộc sống. Những "nỗi niềm" riêng, thời quá khứ.! Tưởng chừng phai nhạt với thời gian Giờ tuổi về già nay nhớ lại... Tấm lòng, Trí, thức, với tâm can. Tâm tư suy nghĩ trong lòng ấy.! Tâm khảm ghi sâu những bóng hình Tâm tình thương xót riêng tư đó. Tâm can cảm mến tận đáy lòng Thúy Tiễn Lê

Đông Lợi Long

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2025

TRƯỜNG TRUNG HỌC VÕ TÁNH & NỮ TRUNH HỌC NHA TRANG

 


Địa chỉ: Số 1 đường Bá Đa Lộc, Nha Trang, khuôn viên rộng rãi tiếp giáp với các đường: Bá Đa Lộc, Hoàng Hoa Thám, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Tri Phương. Phía đông là trường Collège de Francais, Lasan Bá Ninh. Phía tây là Quân Y Viện Nguyễn Huệ. Phía bắc, Trụ sở Liên Đoàn Lao Động, xa hơn là Bệnh Viện Khánh Hòa và Sân Vận Động Nha Trang. Phía nam là Trường Nữ Trung Học chỉ cách 1 con đường Nguyễn Tri Phương.

Năm 1949, khuôn viên này được Công Sứ Pháp và Nha Địa Chính KH cấp cho Trường. Ông Tỉnh trưởng Khánh Hòa Trần Thúc Linh cấp ngân khoản xây dựng.

Thầy Lê Tá được Nha Học Chánh Trung Việt cử làm Hiệu Trưởng là vị Hiệu trưởng có công nhất trong việc vận động và xây dựng trường: năm 1952 trường cất xong: 1 dãy lầu 2 tầng 8 phòng học: 4 trệt 4 lầu, mang tên “Trường Trung Học Võ Tánh” hướng ra đường Bá Đa Lộc, ngày khánh thành Ông Tỉnh trưởng Trần Thúc Linh đọc bài diễn văn bằng tiếng Pháp.

Niên học đầu tiên 1952-1953: có 2 lớp Đệ Thất, 1 lớp Đệ Lục, 1 lớp Đệ Ngũ (tất cả từ Trường Nam Tiểu Học NT chuyển đến).

Năm 1954, nhiều Thầy và học sinh di cư vào Nam dừng chân ở Võ Tánh, Ô. Tỉnh Trưởng Khánh Hòa Nguyễn Trân cấp ngân khoản xây một dãy lầu dài 50m, hội Phụ Huynh Học Sinh tặng bàn ghế... các nhà Mạnh Thường Quân giúp tiền xây nhà Hiệu trưởng, nhà Giáo sư.

Niên khóa1953-1954: tuyển thêm học sinh từ các trường tư thục, nâng tổng số lên 3 lớp Đệ Lục.

Niên khóa1954-1955: 3 lớp Đệ Ngũ, riêng Đệ Ngũ 3 có 2/3 là nữ sinh. Dạy hoàn toàn chương trình Việt.

Năm 1957, trường Trung Học Võ Tánh được Bộ nâng lên hàng Đệ Nhị Cấp nhưng mãi đến niên khóa 1959-1960 mới có Đệ Tam vì thiếu thầy.

Kể từ niên khóa 1969-1970 đổi tên lớp: Đệ Thất, Đệ Lục đến Đệ Nhất gọi là Lớp 6, Lớp 7 đến lớp 12 (cả nước).

Tóm lại, qua một quá trình xây dựng lâu dài, Trường Võ Tánh trông khang trang cổ kính chung quanh có tường xây, mặt tiền có 1 cổng chính với 2 cửa hông 2 bên. Phía cửa hông bên phải có một ngôi nhà nhỏ dành cho Ban Giám Thị và Ban Trật Tự. Từ cổng vào là sân đất rộng, giữa sân là cột cờ, cuối về phía tay phải nhìn ra đường là nhà để xe đạp và 1 cổng lớn để học sinh lưu thông bằng xe đạp.

Qua khỏi sân đất: 2 dãy lầu 2 tầng nguy nga thẳng tắp dài khoảng 300m theo hướng đông-tây, mỗi tầng 8 lớp nối vào giữa bằng một vòm cung rộng, tại đầu 2 dãy lầu ở tầng trệt là Văn phòng Hiệu trưởng, Văn phòng Tổng Giám thị, Văn phòng Giáo sư. Phía sau là sân chơi tráng xi măng, rồi đến tòa nhà trệt nhiều phòng dành cho Đệ Nhất Cấp... Sau nữa là sân vận động.

Đến năm 1973 có 30 phòng học, trên 3.000hs, cùng các phòng thí nghiệm, hội trường, thư viện. Có 55 lớp, riêng Lớp 6 có tới 10 lớp. Ban giảng huấn có trên 65 giáo sư.

Các thời Hiệu Trưởng (kế tiếp Thầy Hiệu trưởng Trương Văn Như) :

- Thầy Lê Tá: Hiệu trưởng 1952-1955 và trên 30 giáo sư:

- Thầy Nguyễn Quảng Tuân dạy Việt văn 1954-1955 và 1964-1965 - Thầy Nguyễn Quang Gĩ từ 1954 - Thầy Đặng Đức Cường từ 1954 - Thầy Vũ Hữu Nghi từ 1954 - Thầy Bùi Trọng Bạch từ 1954 dạy Lý Hóa - v...v...

- Thầy Nguyễn Vỹ: Hiệu trưởng (1955-1956) và trên 30 giáo sư:

- Thầy Cao Văn Huy: Tổng Giám thị - Thầy Võ Thành Điểm: Giám thị, kiêm Thể dục - Thầy Nguyễn Xuân Vinh: Toán (tốt nghiệp Kỹ sư Hàng Không năm 1953 tại Pháp, tốt nghiệp Trường Võ Bị Không Quân Pháp năm 1955, về nước phục vụ tại Căn Cứ Không Quân Nha Trang là giáo sư thỉnh giảng môn Toán trường VT dạy mỗi tuần 4 giờ) - v...v...

- Thầy Lê Khắc Nguyện: Hiệu Trưởng (1956-1959) và trên 60 giáo sư:

- Thầy Đào Trữ: dạy Toán, Giám Học - Thầy Cao Văn Huy: Tổng Giám thị - Thầy Võ Thành Điểm: Giám thị, Hội họa - Thầy Phạm Văn Thanh (Văn phòng) - Thầy Hồ Văn Túy (Văn phòng) - Thầy Thạch Trung Giã: Việt văn (Thầy của Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Văn Liễu tức Trịnh Cung...) - Thầy Cung Giũ Nguyên: Pháp, Việt văn - Thầy Ưng Trung: Pháp văn - Thầy Lê Văn Đào: Anh văn - Thầy Nguyễn Hải: Toán - Cô Tôn Nữ Dung Đài: Anh văn - Thầy Trần Đăng Nhơn: Anh văn - Thầy Trần Thanh Lý: Toán - v...v...

- Thầy Lê Nguyên Diệm: Hiệu Trưởng (1959-1972) và trên 65 giáo sư:

- Thầy Đào Trữ: Giám học - Thầy Nguyễn Văn Dành: Tổng Giám thị - Thầy Sử Văn Tuy: Văn phòng - Nguyễn Văn Đỡ: Văn phòng - Nguyễn Văn Đại: văn phòng - Phạm Văn Thanh: Văn phòng - Thầy Bùi Văn Chọng: Lý Hóa, Trưởng Phòng Thí nghiệm - Thầy Nguyễn Quảng Tuân: Việt văn - Thầy Nguyễn Đức Nhơn: Pháp văn - Thầy Vũ Hữu Nghi: Việt văn - Thầy Bùi Ngoạn Lạc: Toán - Thầy Ngô Đức Diễm: Triết - Thầy Võ Túc: Triết - Nguyễn Thị Kim Thành: Pháp văn - Thầy Võ Doãn Nhẫn: Triết - v...v...

- Thầy Nguyễn Đức Giang: Hiệu trưởng từ 1972-1973 và trên 65 giáo sư:

- Thầy Nguyễn Thúc Thâm: Giám học - Thầy Nguyễn Lự: Phụ tá Giám học - Thầy Nguyễn Văn Dành: Tổng Giám thị - Thầy Vũ Thanh Triệu: Phụ tá Giám thị - Cô Trần Thị Hồng Trang: Hội họa - Thầy Đặng Như Đức: Sử Địa - Thầy Trần Phước Hải: Việt văn - Thầy Cao Quảng Hà: Vạn vật - Thầy Ngô Liệp: Toán - Thầy Đinh Gia Hoài: Lý Hóa - Thầy Lê Thế Nhiếp: Vạn vật - v...v...

- Thầy Nguyễn Thúc Thâm: Hiệu trưởng từ 1974-1975 và trên 65 giáo sư:

-Thầy Phạm Liêu: Pháp văn (1962-1975) - Thầy Hồ Đăng Châu: Việt văn (1959-1975) - Thầy Nguyễn Gia Bá: Lý-Hóa (1960-1975) - Cô Tôn Nữ Dung Kiều: Anh văn - Cô Nguyễn Thị Hoàng Bắc: Việt văn - v...v...

Sau 1975, Trường Trung Học Võ Tánh đổi tên. Ba chữ Bá Đa Lộc và hai hàng cây rợp bóng trên con đường dẫn ra biển cũng không còn nữa.


Vài Nét về Trường Nữ Trung Học Nha Trang


Ngày 20/8/1960 Cô Bùi Ngoạn Lạc nhận Sự vụ lệnh của Giám đốc Nha Đại Diện Giáo Dục miền Trung vào Nha Trang với hai nhiệm vụ: tách nữ sinh ở trường Võ Tánh, thành lập Trường Nữ Trung Học Nha Trang đầu tiên tại Miền Nam Trung Phần.

Việc tách trường chia lớp kéo dài 3 tháng, đầu năm 1961 trường có đủ sổ sách các lớp.

Ngày 14/12/0960 Bộ Giáo Dục ra nghị định thành lập Trường Nữ Trung Học Đệ Nhị Cấp và một nghị định khác cử Cô Bùi Ngoạn Lạc làm Hiệu trưởng và Cô Nguyễn Ngân làm Tổng Giám thị. Bộ cấp ngân khoản xây 15 phòng học tại Chụt, nhưng vì xa thành phố (5 km) nên Ông Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Lý đồng ý đổi địa điểm, cấp cho Trường dãy nhà xe lợp tôn của trại lính Bảo An đường Lê Văn Duyệt (cơ sở ở Chụt được Trường Kỷ Thuật mua, chuyển tiền về cho quỹ NTH) được sửa chữa chia thành 12 phòng học, 1 văn phòng Hiệu trưởng, 1 văn phòng Tổng Giám thị và 2 nhân viên. Cô Bùi Ngoạn Lạc, Hiệu Trưởng và Cô Nguyễn Ngân, Tổng Giám thị là những người có công nhất trong việc vận động và xây dựng trường.

Niên khóa đầu tiên 1961-1962 có 810 nữ sinh, 17 lớp từ Đệ Thất đến đệ Nhị. (Đệ Nhất chưa đủ lớp còn học tại VT). Ban Giảng Huấn gồm 24 giáo sư:

- Cô Bùi Ngoạn Lạc: Hiệu trưởng

- Cô Đoàn Thị Thu Cúc (tức bà Nguyễn Ngân): Tổng Giám thị - Cô Lê Thị Oanh: Văn phòng - Cô Tôn Nữ Dung Đài: Anh văn - Cô Trương Thị Túy Trúc: Toán - Cô Vũ Thị Ngà: Hội họa - Cô Nguyễn Thị Thanh Trí: Hội họa - Cô Thái Thị Bạch Vân: Nữ công Gia chánh - Cô Lê Thị Thanh Tâm: Vạn vật - Cô Lê Thị Cúc: Triết - Cô Phạm Thị Hải: Anh văn - v...v...

Các nữ giáo sư Võ Tánh được chuyển qua NTH cùng một số nam giáo sư dạy giờ, thêm 10 giáo sư tốt nghiệp khóa đầu tiên tại Đại Học Huế.

- Niên khóa 1962-1963: thêm 1 giáo sư người Pháp, mở 1 lớp Đệ Tam C, thêm 1 lớp Đệ Lục, có 19 lớp với 947 hs. USOM cho 1 phòng thí nghiệm nhưng không có đất xây. Năm 1962 Bộ cho mở lớp Đệ Nhất nhưng NTH thiếu giáo sư nên nữ sinh vẫn học tại VT.

- Niên khóa 1963-1964: xây thêm 2 phòng học, thêm 1 lớp Đệ Nhị C, 1 lớp Đệ Ngũ, có 21 lớp, 1.120 hs, 27 giáo sư, bắt đầu có y tá.

- Niên khóa 1964-1965 tại NTH mới: Sau ngày Cách Mạng 1/11/1963, Đại tá Tỉnh trưởng Nguyễn Vĩnh Xuân thuận cấp cho Trường 1 khu đất rộng bỏ trống trên 12.000 mét vuông ở đường Lê Thánh Tôn, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Tri Phương cạnh trường VT, để xây Trường NTHNT (NTH mới) gồm 3 dãy lầu 2 tầng,10 phòng học (5 trệt 5 lầu) nối nhau bằng một nhà chơi. Có 22 lớp (thêm 1 lớp Đệ Tứ), có 1158 hs, 30 giáo sư, với 1 Giám thị đầu tiên.

Bắt đầu từ niên khóa này, một nửa học ở Nữ Trung Học mới, một nửa học ở Nữ Trung Học cũ (cách nhau khoảng 200 m).

- Niên khóa 1965-1966: thêm1 lớp Đệ Tam, có 23 lớp, 1177hs, 36gs, xây thêm 1 dãy lầu thứ hai song song với dãy lầu trước, xây 1 bức tường bao quanh trường (sau 2 năm kéo bằng dây kẽm gai).

- Niên khóa 1966-1967: thêm 1 lớp Đệ Nhị A, thêm 1 số giáo sư và 1 người Mỹ giúp dạy đàm thoại tiếng Anh, có 1 giám học, 1 thư ký, 1 gác dan, có 24 lớp, 1200 hs.

- Niên khóa 1967-1968: mở thêm 2 lớp Đệ Nhất A và Đệ Nhất C, có 27 lớp, 1.300 hs. Đệ Nhất B vẫn học ở VT.

- Niên khóa 1968-1969: thêm 1 lớp Đệ Lục, xây 1 nhà chơi dài 52m nối liền 2 dãy phòng học, xây1 nhà để xe, có 28 lớp, 1466 hs.

- Niên khóa 1969-1970: thêm 2 lớp Đệ Thất, 1 lớp Đệ Nhất, 1 lớp Đệ Ngũ, xây 1 phòng gia chánh nhưng thiếu dụng cụ, có 32 lớp, 1734 hs.

Năm 1970 trường có đủ các lớp từ Đệ Thất đến Đệ Nhất với cả 3 ban A, B, C.

- Niên Khóa 1970-1971: Lễ Kỷ Niệm 10 năm thành lập NTH với sự hiện diện của Bộ trưởng, Thứ trưởng, Tỉnh trưởng... Trường có 3 dãy lầu 2 tầng 10 phòng được nối với một nhà chơi rộng rãi dài gần 80m, tthêm 1 lớp Đệ Thất, 2 lớp Đệ Lục, 1 lớp Đệ Tứ, có 36 lớp, 2.154 hs.

Thi đậu Tú Tài 1 cao nhất thuộc niên khóa 1966-1967: 78%

Thi đậu Tú Tài II cao nhất thuộc niên khóa 1969-1970: 74%

Năm1973, Bộ cho lập ở các tỉnh Sở Giáo Dục Trung-Tiểu Học và Kỹ Thuật. Cô Bùi Ngoạn Lạc qua Sở làm Trưởng Ban Thanh Tra, Cô Tôn Nữ Diệu Trang thay làm Hiệu trưởng, từ đó trường có tên mới là Huyền Trân.

Các thời Hiệu trưởng :

1- Cô Bùi Ngoạn Lạc: Hiệu trưởng 1961-1973

2- Cô Tôn Nữ Diệu Trang: Hiệu trưởng: 1973-1974

3- Cô Lê Thị Gia Hương: Giám học từ 1970-1973, X.L.T.V. Hiệu trưởng 1974-1975

- Cô Phạm Thị Trang: Giám học

- Cô Nguyễn Ngân: Tổng Giám thị 1961-1975

Trường NTHNT- ngôi trường xinh đẹp quét vôi trắng hòa với màu trắng của áo dài nữ sinh như đàn chim thiên nga, tạo thành nét trinh nguyên quyến rũ độc đáo của miền Thùy Dương Cát Trắng hiền hòa, êm đềm, mát ngọt trong lòng mọi người...

Khen ai đã tạo ra nét thần tiên ấy!

Sau 1975, trường cũng cùng chung một số phận với Võ Tánh: thay họ đổi tên.

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2025

MÙA THU (21/9/2025 - 20/12/2025)

 

             Du thuyền trên sông Hozu ở Kyoto

NHỚ LẠI PHỐ NÚI 😀😀


NHỚ chốn núi cao nơi cuộc chiến

LẠI mang về phố lắm bi thương

PHỐ xá ngổn ngang bao xác chết

XƯA rồi còn nhớ mãi sầu vương


NHỚ LẠI HỒI ĐÓ 😀😀


NHỚ cảnh chốn xưa mờ mịt khói

LẠI gần miền đất cạnh quê nhà

HỒI tưởng chiến tranh vùng lửa đạn

ĐÓ đây rơi rớt cảnh điêu tàn


PHỐ NÚI THẬT ĐẸP. 😀😀


PHỐ nhỏ PLEIKU lắm bụi mờ

NÚI non hùng vỹ cảnh nên thơ

THẬT thà thiếu nữ miền sơn cước

ĐẸP lắm duyên tình phố núi cao



        Chùa Minh Thành phố núi Pleiku


NỖI BUỒN


THƠ thẩn chao lòng nhớ cảnh xưa

MANG trên vai nặng nước non nhà

NỖI lòng cảnh sắc không còn nữa

BUỒN vẫn miên man nỗi nhớ nầy.


NIỀM VUI


THƠ thới lâng lâng cảnh phố xưa

MANG theo hình ảnh chốn quê nhà

NIỀM tin gởi trọn qua năm tháng

VUI vẻ an nhiên cuộc sống nầy.



         Mùa Thu cao nguyên Kontum


THU YÊU ĐƯƠNG


Thu về tim bỏ ngõ

Mơ về cội thu xanh

Hàng cây lên thắp nến

Sắc màu thật long lanh


Một lần tim hé cửa

Nhung nhớ hồn dâng đầy

Ngọn gió Thu hôn khẽ

Trên môi thắm nồng say


Dù biết tình hai đứa

Mưa rơi vẫn ngọt ngào

Dù thu về vàng lá

Nắng chiều cứ xôn xao


Một lần tim mở khóa

Đưa lối vào thiên đàng

Bất chợt theo chân bước

Hồn lạc ngõ miên man


Một lần tim bỗng trẻ

Dâng tình yêu thật thà

Đông Xuân Hạ Thu đến

Tình yêu đã nở hoa


Hạ về em nức nở

Thu sang gió ngập phòng

Đông tàn hồn se lạnh

Xuân đến cùng sang sông


Tháng năm tàn theo mộng

Cuốn theo gợn sóng đời

Anh mong về tìm lại

Thuở nào anh bỏ rơi,


Ai ơi.! Thu héo úa

Vết thương xưa đã lành

Kỷ niệm chừ phai nhạt

Hình bóng của năm nào...


    Mùa thu ở Thành phố Osaka Nhật Bản

Thứ Ba, 9 tháng 9, 2025

NỖI NIỀM BUỒN VUI CUỐI THÁNG TÁM.

 


Những "Nỗi Niềm" riêng một đời dấu kín.
Có những " Buồn Vui" suốt đời khép kín.

"LUẬT BẤT THÀNH VĂN"
TRONG CHỮ NGHĨA VIỆT;

- "NỖI BUỒN" là một trạng thái cảm xúc, thường xuất hiện khi chúng ta mất mát, gặp thất bại, hoặc đối mặt với những tình huống không như ý muốn.
- "NIỀM VUI" không chỉ mang lại cảm giác dễ chịu, nhẹ nhàng, hân hoan và tràn đầy hạnh phúc, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp chúng ta vượt qua những thử thách và làm cho cuộc sống trở nên đáng sống hơn.

CHIA BUỒN CHUNG VUI.

XIN GÓP Ý ĐỂ BẢO TỒN NGÔN NGỮ CHÍNH THỐNG ĐÃ HÌNH THÀNH TỪ CHÍNH PHỦ "QUỐC GIA VIỆT NAM" NGÀY 11 - 3 - 1945 ĐẾN NGÀY 30 - 4 - 1975.

Trong văn hóa ngôn ngữ Việt Nam trước 1975, có những "luật bất thành văn".

– Trong những dịp vui (như cưới hỏi, đoàn tụ, sinh nhật, ra trườ̀ng, lên chức.v..v...)
• Chủ nhà thường tổ chức buổi tiệc để CHIA XẺ niềm vui với mọi người...
• Khách được mời, cùng CHUNG VUI (góp vui, cùng vui, hòa vui.v.v...) với chủ nhà.

-- Trong những lúc không vui (như nhà có đám tang, thiên tai, làm ăn thất bại.v.v...)
* Chủ nhà trong lúc đau buồn, cần được sự CHIA XẺ (SAN SẺ) từ bạn bè và mọi người...
* Khách viếng thăm sẽ CHIA BUỒN (CHIA XẺ NỔI BUỒN) với gia đình, hoặc SAN SẺ những thiếu thốn, mất mát vì thiên tai.v.v...

Cái gọi là "Tiếng Việt Trong Sáng và Thuần Nhất" bị ảnh hưởng Sau 1954, đợt di cư vào Nam của một triệu người...và còn tệ hại hơn nữa sau 30-4-1975, ngôn ngữ Việt trong nước dưới mái trường XHCN, và người Việt hải ngoại, ngôn ngữ pha trộn, ngôn ngữ của Ba thế hệ Ông Bà Con cái Cháu chắc...
Tự do Ngôn luận, mạnh ai nấy viết (nhà báo, nhà văn, thơ, nhạc. v.v... Mạnh truyền thông cứ nói không cần kiểm soát, chắt lọc...nên độc giả, thính giả lớp già như Chúng tôi đành chịu trận. Nói ít không ai nghe, viết nhiều góp ý lại cho là nhiều chuyện, thế là Họ cứ phớt lờ mạnh miệng cứ nói, cứng tay cứ viết chẳng cần cân nhắc, sàn lọc mất công..Thật đáng buồn cho sự xuống cấp của Ngôn Ngữ, Văn Hóa, Lịch Sử và Gía trị Truyền Thống của một đất nước có nhiều nghìn năm văn hóa.!
Chúng tôi cũng xin góp ý, hầu tránh những sai sót về sau của thế hệ con cháu, khi xử dụng (hay sử dụng) "Chữ và Nghĩa". Vấn đề góp nhặt chữ nghĩa để làm giàu ngôn ngữ là điều tốt, nhưng phải suy nghĩ, phân tách Đúng Sai khi chấp nhận xử dụng những từ mới.
Khi cả triệu người miển Bắc di cư vào Nam, ngôn ngữ không có gì xáo trộn (chỉ khác địa phương tính!) Nhưng sau năm 1975 thì khác nhau một cách tệ hại (vì hai nền giáo dục vô thần và hữu thần). Biết rõ điều đó không ai khác hơn, chính là chúng ta; Những con dân sống dưới mái nhà và mái trường của chế độ VNCH. Khẳng định được "lằn ranh" văn hóa ngôn ngữ, khi đó chúng ta mới xác quyết được lập trường của văn hóa chính trị. Đó là điều kiện "ắt có và đủ" của mỗi một con người Việt Quốc Gia...

GIẢI PHÓNG - ĐỔI ĐỜI

*. “GIẢI PHÓNG” có nghĩa là giải tỏa, xả, thả, trả tự do. Từ giải phóng chỉ nên dùng cho con người, không dùng cho loài vật, đất đai, vườn tược… lạm dụng từ giải phóng, nghe không thuận tai và sai nghĩa.
Thí dụ:
- "Đã giải phóng (giải tỏa) xong mặt bằng để xây dựng nhà máy".
- "Anh công an lưu thông tích cực công tác để giải phóng (giải tỏa) xe cộ".
- "Em X giải phóng (thả) con chó.!!"

Những câu sau đây mới là cách dùng đúng:

- "Phong trào giải phóng phụ nữ".
Phong trào giải phóng phụ nữ là một phong trào xã hội và chính trị xuất hiện vào cuối những năm 1960 và 1970, chủ yếu ở các quốc gia công nghiệp phương Tây, nhằm đạt được sự bình đẳng về mặt xã hội, kinh tế và cá nhân cho phụ nữ.

- "Công cuộc giải phóng nô lệ".
Phong trào giải phóng nô lệ là một nỗ lực xã hội và chính trị nhằm chấm dứt chế độ nô lệ, đạt được động lực rộng rãi trong thế kỷ 18 và 19.

"Giải Phóng": một danh từ, được định nghĩa là: hành động giải thoát ai đó khỏi cảnh tù đày, nô lệ hoặc áp bức; sự giải thoát. (chuyển từ XẤU sang TỐT)

*. "ĐỔI ĐỜI": thay đổi hẳn cuộc sống theo chiều hướng đi lên, trở nên sung sướng, giàu có, sung túc và tốt đẹp hơn hẳn so với trước đó.

- Người Việt ở miền Bắc Đổi Đời sau ngày thống nhất đất nước
- Người Việt sau ngày đất nước thống nhất đã vượt thoát khỏi chế độ, Đổi Đời khi được định cư ở nước thứ ba.

Thật không may, ngày nay nhiều từ chúng ta cần để hiểu cho đúng nghĩa không còn đủ sức mạnh để làm điều đó nữa. Chúng ta như bà Chatterley của D. H. Lawrence. Về thế giới của bà, tác giả Lawrence viết: “Tất cả những từ ngữ vĩ đại đã bị thế hệ của bà hủy bỏ. Tình yêu, niềm vui, hạnh phúc, tổ ấm, làm cha, làm mẹ, làm chồng, tất cả những từ ngữ mang sức sống vĩ đại này giờ đã chết đi một nửa.” Điều đó cũng đúng với chúng ta. Càng ngày, những từ ngữ chúng ta cần càng thiếu ý nghĩa nên những điều sâu sắc không còn sâu sắc nữa. Tại sao?
Báo Nhân Dân/VN Chủ Nhật, ngày 29/12/2024

"NGHỆ THUẬT ẨM THỰC VIỆT NAM LAN TỎA BỐN PHƯƠNG"
"Thời gian qua, ẩm thực Việt Nam ngày càng thăng hạng với nhiều dấu ấn: Được vinh danh tại những giải thưởng uy tín toàn cầu, gây ấn tượng tại các liên hoan và lễ hội quốc tế, được nhiều chính khách và doanh nhân nổi tiếng tích cực giới thiệu… Sự hấp dẫn và đa dạng, đậm đà bản sắc của nghệ thuật ẩm thực đã và đang là nguồn tài nguyên phong phú để khai thác, từ đó đóng góp tích cực trong việc quảng bá đất nước, con người Việt Nam".

“8 MÓN ẨM THỰC KINH ĐIỂN CỦA NGƯỜI NGA” (ĐÀI VOV/VN). Ăn uống mà cũng “kinh điển” nữa sao? Thực ra đây chỉ là các món ăn cổ truyền giống như bánh chưng, bánh tét, bánh dầy của Việt Nam nhưng lại viết dưới dạng bát nháo vì kém hiểu biết, ít thông thạo chữ Việt.

Ăn uống trở thành ẩm thực.
Thói quen/cách ăn uống trở thành văn hóa ẩm thực,

“DU KHÁCH NƯỚC NGOÀI THAM GIA TOUR TRẢI NGHIỆM ẨM THỰC TẠI HỘI AN” (Báo Sài Gòn Giải Phóng). Thực ra câu nói chỉ là, “Du khách ngoại quốc đi du lịch và thưởng thức các món ăn ở Hội An” nhưng lại viết dưới dạng cầu kỳ vì ít học.

Xin nhớ rằng "ăn uống" không phải là văn hóa, nghệ thuật gì cả.! Con người cũng như các loài vật khi đói thì ăn, khát thì uống chỉ theo nhu cầu tự nhiên của cơ thể mà thôi. Loài thú cũng ăn uống. Con hổ sau khi ăn thịt con nai xong bèn ra bờ suối uống nước.
Nhưng qua các món ăn, nếu biết nấu nướng, chế biến cho đàng hoàng và trình bày món ăn đúng cách hay lịch sự, biết mời chào nhau thì nó là một nét của nghệ thuật và văn hóa vậy.
Khi ngôn ngữ của chúng ta nửa sống nửa chết, có thể chúng ta cần học lại một số ngôn ngữ cũ đã có từ 80 năm về trước...