Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

TRƯỜNG XƯA




Đệ nhị B1 niên khóa 1961-1962


Chúng ta lạc, giữa dòng đời xuôi ngược
Giữa bộn bề những toan tính thiệt hơn
Nhìn ngoảnh lại bảy mươi năm có lẻ
Có đứa còn, có bạn hóa hư vô

Muôn Màu Hoa Nở

  
Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung Oán Ngâm Khúc, đã diễn tả sắc đẹp ước lệ của cung nữ bằng 4 câu thơ tuyệt tác:


Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt, say hoa
Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình


Bốn câu thơ trên đã ví von vẻ đẹp cung nữ với 4 vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Tứ Đại Mỹ Nhân trong sử sách Trung Hoa: Trầm ngư-lạc nhạn-bế nguyệt-tu hoa:

Tứ đại mỹ nhân trong lịch sử
Trung Hoa phong kiến của ngày xưa
Toa nhân mặc khách lòng xao xuyến
Sắc đẹp kiêu sa thấy mặn mà


- Vẻ đẹp trầm ngư- cá lặn, của Tậy Thi
- Vẻ đẹp lạc nhạn-chim sa, của Chiêu Quân
- Vẻ đẹp bế nguyệt- đắm nguyệt, của Điêu Thuyền
- Vẻ đẹp tu hoa-say hoa, của Dương Quý Phi


Nha Trang, thành phố của cát trắng dừa xanh, khoảng thập niên 60-70 cũng có 4 người đẹp trong giới giáo chức, luôn luôn bối tóc đến trường, được học sinh và giáo chức Võ Tánh và Nữ Trung Học thân tặng danh hiệu Tứ Đại Mỹ Nhân:


- Nàng Chiêu Quân, Hiệu Trưởng Huyền Trân-Nữ Trung Học: Diệu Trang
- Nàng Điêu Thuyền, GS hội họa Nữ Trung Học: Thanh Trí
- Nàng Dương Quý Phi, GS Trường Võ Tánh: Tường Qui
- Nàng Tây Thi, GS Pháp văn Trường Võ Tánh: Kim Thành


TÌM VỀ TRƯỜNG XƯA

Tôi nhớ ! gợi lòng về chốn cũ
Thăm lại trường xưa tuổi học trò
Ôi !Võ Tánh Nha Trang hai mùa mưa nắng
Khó mà quên!
Một thuở mặn nồng
Ngày đêm khắc khoải!

Mấy mươi năm dài nương đời viễn xứ
Chừ gặp nhau tay bắt mặt mừng
Mừng anh vẫn khỏe
Mừng chị vẫn tươi
Tóc đã điểm sương mà nụ cười chưa héo
Thương những bạn hiền khuất cuối chân mây

Học trò tôi tuổi cũng khá đầy
Bên cô giáo cũ lòng như mở hội
Những ánh mắt
Những cánh tay
Những hân hoan rộn ràng dấu ái
Là hoa xuân nở rộ giữa mùa đông
Là tinh khôi hạnh phúc vô ngần...

“Cô nhớ em không?
Cô nhớ em không?
Phấn trắng trên tay cô để đâu rồi?...”

Hoài niệm bồi hồi
Theo từng câu hỏi
Hoài niệm mơn man
Theo từng khuôn mặt đậm nét thời gian
Tim tôi rưng rưng
Vội vàng mở cửa
Cố ngăn dòng lệ ứa
Sợ mắt ướt nhạt nhòe lộ nét phôi phai

Tuổi đời qua nhanh
Đã mấy lần mười hai con giáp
Tiếc quá tháng ngày êm ả trôi xa
Tiếc tiếng sóng vỗ ru hồn thức giả
Tiếc con đường bóng ngã
Rợp dáng thư sinh...

Nghĩ mà đau
Bình minh gần kề sao nghe vời vợi
Trên gác vắng mình tôi đứng đợi
Chờ mặt trời sưởi ấm một hoài mong...
Võ Tánh!
Nha Trang!
Biết đến bao giờ ...?!

                                                                            

Trải bao thăng trầm mình lại gặp nhau

Rất đổi thân thương như thời còn đi học

Oà vỡ niềm vui, quên trên đầu hai thứ tóc

Ký ức hiện về

Thời gian thắm thoát tựa thoi đưa

Xa mái trường xưa

Khắp bốn phương trời chim tung cánh

Thế sự đổi thay

Bạn bè chúng ta mỗi người mỗi cảnh

Mặc cảm đời giàu nghèo hay vinh nhục

Trong thanh thảnh tâm hồn

Mình vẫn nhớ mãi tuổi trăng tròn...


Cho tôi về lại ngày xưa ấy!
Để nhớ quê nghèo với nắng mưa
Mắc võng ru mình bên hiên vắng
Nhìn gió đẩy đưa mấy liếp dừa

Đem tôi trở lại thời thơ ấu
Nhắc nhớ, lời ru của Mẹ hiền
Phe phẩy quạt mo trời oi bức 
Cho con tròn giấc của tuổi thơ.


Đưa tôi về lại mùa thu nắng...
Thuở mới vào yêu…thật dại khờ

Ngồi chép thư tình thâu đêm vắng
Nghĩ lại ghép vần những lời thơ

Để tôi nhớ lại tình yêu cũ
Xem mình còn biết bởi vì đâu!
Hai đứa mỗi nơi  không từ biệt
Chưa kịp sang mùa …đã mưa ngâu.!

Trong tuổi học trò, chúng ta hầu như ai cũng đều thuộc bài hát “Trường Làng tôi” của nhạc sĩ Phạm Trọng (Phạm Trọng Cầu) sau đây

Trường làng tôi cây xanh lá vây quanh
Muôn chim hót vang lên êm đềm
Lên trường tôi con đê bé xinh xinh
Len qua đám cây xanh nhẹ lướt
Trường làng tôi hai gian lá đơn sơ
Che trên miếng sân vuông mơ màng                   Trường làng tôi không giây phút tôi quên                   Dù cách xa muôn trùng người ơi…

Từ đó, lòng tôi nao nao nhớ về những ngôi trường với biết bao kỷ niệm tại Nha Trang…

Trường Nam Tiểu học Nha Trang

Khi gia đình thân phụ tôi về sống tại Nha Trang năm 1956, tôi đã học dở dang lớp Nhất trường Quang Trung Hà Nội nên thân phụ xin cho tôi vào học lớp Nhất H trường Nam Tiểu học (tôi nhớ thầy tôi tên là Nguyễn Địch Giỹ dạy lớp này) thường được gọi tắt là “Trường Nam”, nằm trên đường Hàn Thuyên. Tôi còn nhớ mãi là sân trường Nam thời ấy được tráng bằng đất sét có trộn lẫn với sỏi nhỏ. Mùa mưa, nhờ có sỏi cho nên sân trường không trơn lắm. Mùa nắng, nền đất rất cứng. Trong sân trường có hai loại cây chính là Bàng và Phượng, cây nào cũng thuộc loại cổ thụ, có lẽ đã được trồng từ bao nhiêu đời rồi, cây to cao lớn, tỏa bóng mát cho sân trường

- Cây Bàng rất to và cao. Lá bàng là loại lá cây thật to và dày, khi còn trên cây thì có màu xanh lục đậm, lúc già thì chuyển sang màu vàng đậm rồi rụng xuống đất, phủ đầy sân trường. Ngoài công dụng làm “chất đốt” cho nhà nghèo, lá bàng còn thường được dùng làm miếng đệm để ngồi xuống đất cho khỏi dơ quần áo. Trái bàng to bằng cỡ hột trứng gà nhưng không tròn hẳn, khi chín thì chuyển sang màu vàng và rụng xuống, lớp “cơm” ngoài ăn rất thơm. Ăn hết lớp cơm ngoài thì đụng phải một lớp vỏ rất cứng có cạnh và hai đầu rất sắc. Để khô đến một mức nào đó, đập lớp vỏ này ra, bên trong ruột lại là một loại “hạt dẻ”, ăn rất bùi giống như hạnh nhân.

Cây Phượng cũng rất to và cao, nhưng lá phượng thì nhỏ, chỉ cỡ lớn hơn lá me. Lá phượng chẳng có công dụng gì ngoài việc tạo “việc làm” cho học sinh thực tập “vệ sinh trường lớp”. Nhưng phượng có hoa màu đỏ, một màu đỏ tươi thắm tuyệt vời, một màu đỏ trẻ trung vui vẻ, tượng trưng xứng đáng cho tuổi học trò, cho lứa tuổi vừa lớn, lứa tuổi “ô mai”. Khi hoa phượng già đi, màu đỏ có hơi sẫm hơn, cánh hoa trở nên mỏng manh, một cơn gió nhẹ thổi qua có thể làm các cánh hoa rơi lả tả, giống như xác pháo đốt vào ngày Tết hay ngày cưới. Phượng lại còn có trái, trái phượng có hình cánh cung, dài chừng hai, ba tấc; khi già, bóc ra, bên trong có nhiều hột nằm xếp hàng theo hình cánh cung, ăn có vị chát chát, bùi bùi, ngọt ngọt.

Vì hoa này trông giống đuôi chim phượng hoàng, nên người ta gọi là hoa cây “Phượng Vĩ” (vĩ là đuôi), sau gọi gọn lại là hoa Phượng, cây này có nguồn gốc ở đảo Madagascar, thuộc đia Pháp tại Châu Phi, nên Pháp đã mang giống cây này sang trồng ờ Việt Nam, đề loài hoa này gắn bó với cuộc đời học trò với biết bao vui buồn lẫn lộn. Nhiều người nhầm lẫn hoa phượng và hoa Điệp, hoa cũng tương tự hoa phượng, nhưng cây điệp nhỏ hơn và vì hoa điệp nhìn giống con bướm nên được gọi là hoa “Hồ Điệp” (con bướm), sau gọi gọn lại là hoa điệp.

Phượng cũng còn có nhiệm vụ vô hình nhưng rất là thân thiết với học trò, nhiệm vụ của một cái đồng hồ báo tin mùa hè đã về. Ai đã từng đi học mà chẳng mong…Hè về! Tuy đang bù đầu vì thi cử, nhất là thi đệ nhị lục cá nguyệt hoặc thi các cấp bằng tiểu và trung học, thoạt nhìn thấy màu hoa phượng nở là người cứ rạo rực, nôn nao hẳn lên. Bận rộn hơn, nhưng nhanh nhẹn hơn, vui vẻ hơn…Bên cạnh các bài thi là những tập “lưu bút ngày xanh” chuyền tay nhau, viết cho nhau…Rộn ràng, náo nhiệt…Rồi ngày chia tay về nghỉ hè đến, hoa phượng nở đỏ rực sân trường.

Cuối năm học ở trường Nam, tôi được lãnh phần thưởng danh dự là một cuốn “Việt Nam Tân Từ điển” của Thanh Nghị to tướng (và một vài cuốn sách nữa), mà cho tới ngày hôm nay, tôi vẫn còn giữ được kỳ niệm đó, dù giấy cuốn Từ điển đã biến thành màu vàng ố, nhiều trang sách bị rách tơi tả cùng năm tháng từ năm 1956 tới nay…

Trường Trung học Công lập Võ Tánh

Rồi sau đó, tôi thi đậu đệ thất và được vào học trường Trung học Võ Tánh, đây là một ngôi trường lớn thứ hai ở Miền Trung, chỉ đứng sau trường Quốc học Huế, hơn nữa, vì là một trường có lớp đệ Nhất nên học sinh sẽ được theo học suốt từ đệ Thất đến đệ Nhất (sau khi thi đậu bằng Tú tài I), nên cũng là một niềm hãnh diện lớn lao cho chính bản thân mình và cũng là niềm vui cho gia đình. Ngôi trường này nằm trên con đường Bá đa Lộc, cũng có hàng cây Bàng xanh lá xum xuệ phía trước mặt trường và vài cây Phượng hoa đỏ thắm rải rác trong sân trường, rợp bóng mát cho học sinh trong những ngày nắng chói, nhưng so với trường Nam trước kia thì trường Võ Tánh ít cây bàng và phượng hơn nhiều. Dưới xa một chút là trường Pháp và tận cùng là khoảng trời của biển cả.

Lúc đó, ngôi trường đang xây dựng mới được nửa dãy lầu 2 tầng ở mặt trước. Thêm một nhà vệ sinh nối liền dãy trước với khu phòng học phía sau gồm 6 phòng. Đất sân trường còn rộng rãi với một sân đá bóng đầy cát trắng. Con đường trước mặt trường rợp bóng cây xanh. Trường tôi học sinh nam nữ còn học chung với nhau vì chưa có trường Nữ Trung học. Giáo sư trong trường thì Thầy nhiều hơn Cô. Đa số Thầy đi dạy bằng xe đạp, có chen vài chiếc Mobylette. Dọc theo con đường bên trái trường (nay là đường Hoàng hoa Thám) chỉ có một dãy nhà bằng fibro xi măng dành cho thầy Tổng Giám thị. Cuối dãy nhà này là một biệt thự nhỏ của thầy Hiệu trưởng. Chỉ bấy nhiêu thôi mà sao đầm ấm quá, dễ thương quá. Nam nữ học sinh đều mặc đồng phục, hiền hòa.

Tôi bùi ngùi nhớ lại tên của những vị như, thầy Lê khắc Nguyện, Lê nguyên Diệm (Hiệu trưởng), thầy Võ thành Điểm, Cao xuân Huy (Tổng Giám thị), thầy Nguyễn khoa Phước (Giám học, có vợ day Sử địa), thầy Bửu Thả dạy toán hiền lành và nhỏ nhẹ, làm giáo sư Hướng dẫn lớp tôi, đệ Tam B4 (sau diễm phúc lấy được cô nữ sinh hoa khôi Cẩm Vân, chị của Kim Anh), thầy Nguyễn đức Nhơn (dạy Việt văn), thầy Nguyễn Tri Phương (dạy Toán), Trần thanh Lý (dạy Lý Hóa), thầy Đỗ quang Phiệt (dạy Anh văn), thầy Trần Đức Long (Luật sư, dạy Công dân giáo dục).v.v…Vài giáo sư nổi tiếng trong trường như :

- Thầy Nguyễn Vỹ (sinh 1901) vừa làm lễ Thượng thọ Bách niên vào năm 2002, tốt nghiệp trường Cao đằng Sư phạm Đông Dương, về dạy học ờ Qui Nhơn, Huế, Quảng Ngãi, về làm hiệu trưởng trường Võ Tánh (1957-58) sau về làm Thanh tra Trung học (1959-60) rồi về hưu. Xin đừng ngộ nhận với nhà thơ, nhà báo Nguyễn Vỹ (1912-1971) ở Sài Gòn nổi tiếng với báo Dân Ta và tạp chí Phổ Thông.

- Thầy Thạch Trung Giả (tên thật là Trần văn Long) dạy môn Việt văn. Nhiều người còn nhớ, một hôm đang trong giờ thầy giảng đoạn Kiều với Từ Hải…thì bất chợt một nữ sinh ngó lên bàn hàng trên, lơ đãng…Thầy Giả ngưng giảng, nhìn về phía chị và giân dữ mắng: - chị M. sao chị ngu xuẩn thế? Làm ồn trong lúc tôi đang giảng bài, chị biên cho tôi 100 lần “tôi không ngu xuẩn làm ồn trong giờ giảng bài”…Tuần sau thầy gọi chị ấy lên trả bài và chị nộp bài phạt, thầy nhận và hỏi chị: - Tôi giận mắng chị có buồn không? - Thưa thầy không ạ !!! Nhớ đến những lúc thầy bị ốm, sổ mũi, thầy không có khăn tay nên thầy lấy giấy học trò vò lại mà hỉ. Nghĩ lại hình ảnh đó mà thấy thương thầy. Các bạn ai đã học với thầy chắc cũng có một lần chứng kiến cảnh đó. Khi dạy Việt văn, thầy Thạch trung Giả tỏa ra phong thái của một nghệ sĩ, luôn mặc quần áo và mũ cối trắng nhưng đã ngả vàng, răng có dấu nhựa thuốc lào, trà đặc. Khi thầy giảng bài, cả lớp im phăng phắc như không chỉ nghe lời thầy nói mà còn thấy được hình ảnh mà thầy muốn đề cập…Học sinh sớm bắt gặp cái hay, cái đẹp của văn thơ, thầm cám ơn thầy.

Trong khi phê điểm Việt văn cho học sinh, dường như thầy cho theo cảm tính và tùy hứng. Cùng một sách luận đề, bốn năm đứa chúng tôi chép lại đem nộp và thầy đã phê điểm khác nhau rất xa. Thật là chán khi nhìn thấy hình dáng rất “Phở” của thầy. Thầy được học sinh tặng biệt danh “Phở” vì quần áo thầy trông rất luộm thuộm và bạc màu. Học Văn với thầy, học sinh phải đọc thêm sách báo mới đủ trình độ tiếp thu bài giảng của thầy, phải biết đặt câu hỏi mới lạ để thầy giải thích hầu mở rộng kiến thức. Trong cổ văn Việt Nam, các tác giả hầu hết đều học rộng, hiểu biết sâu sắc về Phật, Khổng, Lão nên các tác phẩm cũng bàng bạc tư tưởng cao siêu đó. Và đấy cũng là sở trường của thầy Thạch Trung Giả. Đôi lúc nhìn thầy giảng bài với đôi mắt lim dim, xuất thần như một đạo sĩ. Với đôi mắt và tâm hồn thoát tục đó, tôi nghĩ chắc rằng thầy không nhớ nổi 10 đứa học trò trong hàng ngàn đứa đã học với thầy. Nữ sinh Nguyễn thị Hoàng đã từng làm một bài luận văn dài 20 trang giấy lớn, được thầy chấm 20/20 điểm và đem vào đọc và bình cho cả lớp nghe.

Vào một buổi chiều cuối năm, những buổi như vậy học sinh thường rất lười vì thích đi chợ Tết Nha Trang (thường họp từ bùng binh đầu đường Độc Lập, tiếp nối đường Phan Bội Châu đến Chợ Đầm), lớp học vẫn đông đủ học sinh trong giờ Việt văn của thầy. Thầy diện một bộ quần áo mới, veston bên ngoài, trông thầy ra dáng một trung niên đạo sĩ lắm. Thầy say sưa giảng về Tản Đà với giấc mộng lớn , giấc mộng con. Cả lớp say mê theo dõi, lớp học im phăng phắc. Học sinh như những tín đồ ngoan đạo đang uống từng lời của thầy và thầy đang xuất thần như một thiền sư hay đạo sĩ trong lời giảng trầm trầm. Bỗng một tiếng “Phở” thật to rao lên ngoài đường vang dội vào lớp học, cả lớp bật cười. Thầy tỉnh mộng cũng cười theo. Tiếng cười chưa dứt lời, thầy chêm thêm một câu:

- Tôi như thế này mà “Phở” à! Các anh cứ !!!...

Rồi thầy lại cười, cười chảy nước mắt. Từ đó mọi người biết rằng biệt danh Phở đã đến tai thầy và thầy đã thay đổi y phục tươm tất hơn trước…

Nhiều người cho biết là cứ đến mùa hè là thầy Giả lên chùa Vào Hạ (một khóa học của các tu sĩ), tham thiền với các vị sư và trong thời gian sau năm 1975, thầy Giả thường hay lên chùa và thầy đã mất tại chùa., vì hoàn cảnh khó khăn, chùa quá nghèo nên không có tiền mua hòm nên các vị sư chỉ còn cách quấn chiếu và tìm ván cũ đóng lại chôn thầy…

Học sinh trường Võ Tánh Nha Trang cảm thương thầy quá..Thầy ơi! Thầy ơi!

- Thầy Bửu Cân: Môn chính của thầy là Vạn vật, nhưng thầy có dạy cả Sử Địa và Công dân giáo dục nữa. Học trò của thầy thuộc lớp tiền bối là cỡ các học giả Hoàng xuân Hãn, Thái văn Kiểm, thẩm phán Trần thúc Linh…Chúng tôi kính thầy như cha! Mà có lẽ thầy cũng coi chúng tôi như con! Lúc còn học thầy, chúng tôi rất sợ thầy, nhưng vì tuổi còn nhỏ nên nhiều lúc chúng tôi đã…rất phiền thầy! Chúng tôi thấy thầy nghiêm khắc quá, khó tính quá, gay gắt quá, đôi lúc gàn dở và tàn nhẫn quá…Cùng với tuổi đời, cùng với kinh nghiệm thực tế, chúng tôi mới thật... là đã hiểu được thầy.

Tiểu sử sơ lược của thầy Bửu Cân:

Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm năm 1923, thầy là sinh viên trẻ nhất (21 tuổi) cùa khóa Sư phạm đầu tiên mở tại Hà Nội

Giáo sư Toán Lý Hóa College Vinh, trung học Khải Định. Đổi ra Thanh Hóa, dạy trường Đào duy Từ, sau về trường Võ Tánh Nha Trang từ năm 1952 cho đến ngày hưu trí.

Tận tụy với thiên chức nhà giáo, thầy thành lập và làm hiệu trưởng trường trung học tư thục Đăng Khoa Nha Trang trong một thời gian ngắn. Ngoài một số sách giáo khoa, thầy đã viết: - Hán Việt Thành ngữ - Lễ Mệnh Tiếu – Những người hay – Vi Trùng học – Ông Pasteur, nhà bác học…

Theo trí nhớ của riêng tôi và một vài bạn khác thì thầy có nhiều kỷ niệm như sau:

- Thầy vẽ hình Vạn vật và viết chữ rất đẹp. Đứng trên bảng đen trong lớp, thầy quay mặt nhìn học trò, chỉ hơi nghiêng người một chút mà tay phải thầy cầm phấn vẽ và viết lên bảng rất đẹp, rất đều và rất ngay hàng thẳng lối.

- Thầy hay nói chuyện đời hay kể chuyện vui để cho không khí học đỡ buồn ngủ. Một hôm thầy hỏi “Tối nay có bài phải học mà lại có một phim xi nê rất hay còn chiếu bữa chót, nên ở nhà học bài hay nên đi coi xi nê?”. Các anh nghĩ coi, ở cái tuổi học trò ngày đó, có đứa nào dám trả lời là không ở nhà học bài Nhiều đứa trong đám chúng tôi nhao nhao lên “Thưa thầy con ở nhà học bài” cứ làm như mình ngoan lắm. Thầy mỉm cười, phán ngay “Tụi bay ngu lắm, bài thì lúc nào học chả được, phim hay biết đến bao giờ mới chiếu lại”.

- Một hôm thi lục cá nguyệt, lúc bước vào lớp thầy đưa tay kéo cánh cửa lớp học nằm ở vị trí xéo cỡ 45 độ, mà chúng tôi không đứa nào để ý. Thầy mang theo một tờ báo hàng ngày. Sau khi ra đề thi xong, thầy ngồi tại bàn, lúc thì quay ghế nhìn ra cửa lớp, lúc thì mở rộng tờ báo để đọc. Tuyệt nhiên thầy không hề nhìn xuống đám học trò. Một lúc, thầy bước xuống, tới ngay chỗ một em đang giở sách dấu dưới bàn để “quay cóp”. Thầy lôi cuốn sách ra, để ngay lên bàn và bảo người học trò “Tau cho mi để trên bàn mà chép. Tau không muốn mi ngày sau trở thành một thằng ăn cắp”. Mãi sau này chúng tôi mới khám phá ra là trên tờ báo thầy giả vờ đọc, thầy đã khoét sẵn một lỗ nhỏ, qua đó thầy nhìn xuống đám học trò. Hoặc khi nhìn ra cửa, cánh cửa kính ở vị trí 45 độ phản chiếu toàn bộ đám học trò trong lớp học vào con mắt của thầy.

- Thầy thường giảng cho học trò nghe về “cái học trong trường” và “cái sống ngoài đời” khác nhau thế nào: Thầy bảo “Tụi bây muốn được nhiều điểm, tao cho nhiều. Tụi bây ưng phê học bạ tốt, tao phê cho. Nhưng sau này ra ngoài đời những thứ này sẽ không giúp được gì cho tụi bay đâu. Tụi bây muốn thành công, phải sống “không tranh giành, không nịnh bợ, không gian xảo, không lòn cúi, không lừa đảo, phải sống cho ngay thẳng, hiên ngang, nỗ lực…”.

- Trong suốt hơn nửa thế kỷ qua, tôi luôn luôn nhớ các buổi học với thầy, nó đã hướng tôi vào cuộc sống đạo đức và sống vui, coi cuộc đời như một trò chơi lớn chứ không như giấc mộng. Thầy đối xử bình đẳng với mọi học trò, thầy yêu thương tất cả. Thật là một lối dạy cao thượng, tôn trong con người, giống phương pháp dạy của Đức Phật “Mỗi người hãy tự thắp đuốc mà đi”. Chúng tôi xin tri ân Thầy Bửu Cân đã dạy cho bài học chỉ gồm có 8 chữ ngắn gọn nhưng thật nhiều ngụ ý.

Nha Trang, đó là thành phố của tình yêu và chia biệt, thành phố của những mối tình hè, của những con sóng vô tình, những dấu chân bị nước cuốn đi, không để lại một vết tích nào, như thể trước đó nó không tồn tại…

Khánh Hòa - Nha Trang là nơi quy tụ nhiều hào kiệt, riêng ở lãnh vực Văn học nghệ thuật đã xuất hiện nhiều nhân tài xuất sắc:

Trường Võ Tánh của tôi xuất thân nhiều nhân tài về “toán học và văn học”, như:

- Thầy Nguyễn Xuân Vinh (sinh năm 1930): dạy Toán đệ Nhất, lần đầu tiên học sinh có sách “Toán lớp Đệ Nhất B” xừ dụng, thầy rất giỏi môn Toán cao cấp, nên về sau thầy sang Hoa Kỳ vào làm trong cơ quan Hàng không và Vũ trụ NASA, đem lại niềm vinh dự cho con người Việt Nam.

Thầy là giáo sư danh dự ngành kỹ thuật Không gian đại học Michigan, là nhà toán học, nhà khoa học Không gian xuất sắc, Tiến sĩ Toán học đại học Sorbonne, Paris. Năm 1984, thầy là người Mỹ thứ ba và là người châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian của Pháp. . Thầy viết sách “Gương danh tướng”, “Theo Ánh tinh cầu” và nhất là sách “Đời Phi công” với bút danh là Toàn Phong được nhiều học sinh thích thú tìm đọc.

- Thầy Cung Giũ Nguyên: dạy Pháp văn ở trường Võ Tánh, sau làm hiệu trưởng trường bán công Lê Quý Đôn Nha Trang, đã viết nhiều tác phầm nổi tiếng bằng Pháp vặn. Hiện tại Hoa Kỳ , nhóm cựu học sinh trường Võ Tánh và Nữ Trung học mới thành lập Trung tâm Cung giũ Nguyên (bao gồm Quỹ Học bổng giúp học sinh nghèo tỉnh Khánh Hòa – Nha Trang).

- Nguyễn thị Hoàng, nữ sinh năm đệ Tam (1956-57) đã nổi tiếng khắp trường Võ Tánh với một bài luận văn dài 20 trang giấy lớn, được đem vào nhiều lớp để đọc cho học sinh nghe và nhất là bài thơ “Chi lạ rứa”. Chị là người có nhiều tai tiếng với một vị thầy cao niên, sau chị cũng dạy học và viết tiểu thuyết “Vòng tay Học trò” – gây xôn xao lớn cho văn nghệ miền Nam, mà nhân vật Minh , thực ra là Mai tiến Thành chỉ học lớp đệ Tam (không phải đệ Nhất như trong sách) khá đẹp trai kiểu “Playboy”, con nhà giàu ở Ban mê Thuột sau này về Sài Gòn anh ta viết cuốn sách “Tiếng hát Học trò” để trả lời cuốn Vòng tay Học trò. Chị Hoàng hồi đó, người nhỏ, dân Huế rặt, thân hình “bốc lửa”, nhan sắc trung bình, rất lãng mạn, có tài văn nghệ, hay mặc áo dài trắng như nữ sinh và khoác áo lông trắng. Sau về dạy ở trường Trần hưng Đạo Đà Lạt, chị Hoàng có dẫn học sinh đệ Nhất đi tham quan, khi đến nơi, chị nhảy xuống xe GMC, bị gãy một chiếc guốc, chị vứt luôn chiếc kia, và đi chân trần nên học sinh gọi chị bằng “Bà Hoàng đi chân không” thì chị rất thích. Vì lúc đó ở Đà Lạt đương chiếu cuốn phim “Nữ Bá tước chân không” (La Comtesse aux pieds nus) dường như do Ava Garner đóng. Chị thích người ta gọi bằng “Bà Hoàng” hơn là “Cô Hoàng” mà nhiều người cho rằng chị khoái liên hệ với Hoàng tộc, nên sau này lấy ông Bửu Sum (hoàng phái) – giáo sư triết Đà Lạt, nhưng lại trốn lính nên chị rất vất vả khi về Sài Gòn viết văn, bỏ nghề dạy học.

Ngoài ra, các nghệ sĩ sau đây ngày xưa cũng là học sinh trường trung học Võ Tánh:

- Dương nghiễm Mậu, tức Phi ích Nghiễm là một nhà văn rất tài hoa…

- Trịnh Cung (tên thật là Nguyễn văn Liễu) là họa sĩ khá nổi tiếng, bạn thân của nhạc sĩ Trinh công Sơn.

- Nhà văn Nguyễn Mộng Giác

- Nhà thơ Hoàng Hương Trang

- Nhà thơ Cao Hoàng Nhân (Bùi Cao Hoàng)…

Thế là, khi lên trung học, cuộc đời tôi cùng tuổi học trò gắn liền với trường trung học Võ Tánh Nha Trang. Tôi học hết trung học tại ngôi trường này. Cũng nằm trên đường Bá đa Lộc nơi trường tôi tọa lạc, về hướng sát bờ biển là trường College Fracaise de Nhatrang – nơi mà vài người em của tôi theo học, thời đó học sinh của hai trường Võ Tánh và trường College thường hay gây sự với nhau ỏm tỏi. Và sau lưng trường Pháp, xa xa một chút là trường trung học tư thục Bá Ninh – một trường Thiên Chúa khá nổi tiếng. Sau lưng trường tôi, xa xa là trường trung học bán công Lê Quý Đôn, gần đó là trường Nữ Trung học Nha Trang (sau đổi là trường Huyền Trân, sau năm 1975 trường Huyền Trân đổi lại là trường Thái Nguyên cùng thời với trường Võ Tánh đổi tên là trường Lý Tự Trọng).

Trong thời gian là cậu học sinh của trường Võ Tánh, nhà trường đã tổ chức cho học sinh các lớp chúng tôi đi cắm trại tại: - Khu rừng nhỏ nằm gần trường Lasan và Hòn Chồng nổi tiếng – Suối Ba Hồ với cảnh trí rất hoang dã, thơ mộng, ờ Ninh Hòa và – Bờ biển Đại Lãnh , cách Nha Trang 80km nằm giữa đèo Rọ Tượng và đèo Cả, có bờ biển khá rộng, dài với bãi cát trắng mịn và ngay từ xa xưa, phong cảnh Đại Lãnh đã được vua Minh Mạng cho thợ chạm hình vào một trong Cửu Đỉnh trang trí trước sân Thế Miếu và có tên trong Từ điển quốc gia do triều Tự Đức biên soạn.

Những kỷ niệm trên sẽ hằn ghi mãi mãi trong suốt cuộc đời của chính tôi về trường trung học Võ Tánh mến yêu của tôi - với thành phố quê hương cát trắng qua bài hát “Nha Trang” của nhạc sĩ Minh Kỳ:

- Nha Trang là miền quê hương cát trắng
Có những đêm nghe vọng lại, ầm ầm tiếng sóng xa đưa.
- Nha Trang cánh đồng bao la bát ngát
Hương quê dân lên ngào ngạt, hòa cùng sức sống yên vui…
- Còn đâu những chiều vui xưa
Còn đâu những chiều say sưa
Ngồi nơi biển buồn trông ra khơi mênh mông.
-Còn đâu Tháp Bà êm mơ
Còn đâu Đá Chồng bơ vơ
Còn đâu bến Cầu Đá nên thơ…


KỸ NIỆM NGÀY 29 THÁNG 3 NĂM 2025

 

TINH TÚ MỚI


Ngày tháng ba năm ấy

Thoáng nhớ về xa xưa

Bé gái chào đời khóc

Nhịp sống mới dâng trào


Ngày sinh em vừa ý

Đất trời ở hai nơi

Nụ tâm xuân nẩy lộc

Chớm nở một tinh khôi


Bầu trời ngự sao mới

Đất dành chỗ cho em

Trời Đất nơi dung chứa

Cha mẹ dưỡng dục nên.


MỘT THỜI...ÁO TRẮNG


Áo trắng còn bay nhiều ước hẹn

Giấc mơ đời ngọt ví bâng khuâng

Nắm tay dài mãi niềm lưu luyến

Ngắn chậm bước chân đến ngại ngần


MỘT THỜI..... GOM VỀ..


Một thời em đến trường

Một thời áo trắng bay

Một thời khua chân bước

Một thời má hây hây..


Tuổi nào nhiều mơ mộng?

Tuổi nào lắm dỗi hờn?

Tuổi nào mang nỗi nhớ?

Tuổi nào sẽ cô đơn???


Tìm lại chút hương nồng

Tìm lại tuổi thơ ngây

Tìm lại trong ký ức

Tìm lại hương nồng say..


Bao giờ về thăm lại

Bao giờ thấy đồi nương

Bao giờ thăm phố Núi

Bao giờ hết nhớ thương..


Gom về kỷ niệm còn

Gom về những vấn vương

Gom về bao nỗi nhớ

Gom về từng con đường..


MỘT THỜI lắm mộng mơ

TUỔI NÀO hết đợi chờ

TÌM LẠI hương nồng cũ

BAO GIỜ vơi nỗi nhớ

GOM VỀ mối tình thơ..


CON ĐƯỜNG


Con đường em vẫn, đi xe đạp

Mùa nở hoa mai đã ghé rồi,

Con đường chưa biết thời thơ mộng

Nằm đợi chúng ta đến hẹn hò.!


Con đường tôi thuộc, từng viên sỏi

Chạm rất vô tình dưới bánh xe

Mỗi tối đêm về tôi tách phố

Ghé thăm buổi tối lúc lên đèn


Con đường đá trải thời niên thiếu

Xuân tết hoa rừng vướng tóc em

Trải qua mấy bận còn lưu luyến

Cầu chúc hai ta toại ước nguyền


Con đường mới đó mà lâu lắm

Thay đổi không còn vết tích xưa

Con đường lắm bận cùng xe đạp

Em có về thăm chỉ một lần.


EM VỀ BÊN ANH


Anh ru

em giấc xuân nồng

Mà bao năm tháng

sống cùng bên nhau


Tay em

đón nụ xuân này

Hương xưa còn đó

những ngày tháng qua


Em về

xóm lưới dốc cao

Long lanh sương phủ

nhạt nhòa nắng xuân


Em về

một sớm phù vân

Tinh khôi áo lụa

bâng khuâng đợi chờ


Em về

Anh có làm thơ

Để em gối mộng

đêm mơ chuyện mình

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2025

NÓI LÁO

 


NÓI LÁO


Chị tôi có một con mèo,

Khi mô hết chuột lên đèo bắt nai.

Chị tôi dùng một cái chai,

Đựng năm thùng mắm với hai thùng dầu.


Bác tôi có một bộ râu,

Bứt ra một sợi đem câu cá kình.

Nói ra cô bác thất kinh,

Nhà nước nói láo, chẳng mình chỉ tôi.


Không hiểu sao bây giờ thấy người ta “nói láo” nhiều quá. Nói láo “đa cấp”, nặng nề trên mọi tầng lớp...

Nhan nhản trên tivi, trên mạng xã hội, trên báo chí. Người láo với người. Quan láo với dân. Doanh nghiệp láo với khách hàng. “Đồng chí” láo với “đồng chí”. Thầy tu láo với đạo hữu… Thật là một xã hội đã bị MẤT NIỀM TIN vì láo!…

Ông tiến sĩ nầy, ông giáo sư nọ, chuyên gia dinh dưỡng, người nghệ sĩ quảng cáo sữa giả, thuốc giả, cứ nhan nhản “siêu thuốc” chữa bệnh từ gout đến tiểu đường, đến yếu sinh lý, cứ như là thần dược. Ông quan đăng đàn dạy dân liêm khiết chưa được mấy hôm thì vào tù vì tham nhũng, hối lộ, như ông bí thư, ông bộ trưởng, đến ông viện trưởng lý luận trung ương cũng vào tù nốt thì quả thật, ở xã hội này sự “chân thật” không còn chỗ đứng.

Tôi ngạc nhiên khi chứng kiến (nghe) nhiều người bạn (thân) tôi nói láo. Một ông làm quan đang ngồi bàn cùng nhậu, điện thoại đến, ông ra dấu im lặng và nói dối tỉnh bơ “đang trên đường đến xã X để làm việc”. Một người đi xe cùng bồ nhí, có phone đến hỏi đi với ai, anh bảo đi một mình. Một cô gái thêu dệt oang oang về chuyện gia đình, người bạn đi cùng tá hỏa, bởi vì mình cũng là người trong cuộc, trong câu chuyện. Ông bạn hỏi cơ duyên gì mà cô phải nói láo, chỉ nhận cái cười trừ.!

Hình như láo là một thói quen, nên họ thấy bình thường, không xấu hổ. Hay cứ tưởng, anh láo thì tôi cũng láo. Hay đời này láo cả, mình không láo thì mình thành thằng tụt hậu, thui chột. Láo miết đến khi họ cũng tin chuyện phịa của mình là sự thật…

Ông Goebbels Đức quốc xã dạy dỗ cứ nói láo ngày này sang ngày khác thì chuyện láo sẽ thành chuyện thật, bộ máy tuyên truyền của các nước độc tài hiện nay cũng áp dụng chính sách này. Ngày xưa mẹ thầy Tăng Sâm phải bỏ khung dệt chạy ra chợ xem con mình có giết người không cũng vì những tin láo (fake news) cứ dồn dập đến tai.

Mọi người và tôi chắc chắn cũng nhiều lần nói láo chứ chẳng phải không. Nói láo với ba mẹ để chạy chơi với bạn. Nói láo với bạn để khỏi đến một cuộc gặp có những người, ta không thích. Nhậu với bạn nói láo vợ là đi công chuyện, những cái láo chẳng hại ai!…

Giới thiệu sản phẩm (marketing) là phải nói láo, điều đó không đúng, thật sự sản phẩm nào cũng luôn phải hoàn thiện, vì có ưu có khuyết là chuyện bình thường, nên khi chào mời, ta chỉ cần nhấn mạnh đến cái ưu, chẳng ai bắt ta phải khai ra cái khuyết. Ông bà chẳng nói “Tốt khoe, xấu che” đó sao. Xấu mà nói tốt mới là nói láo. (Tuy nhiên, với thực phẩm, thuốc men, cần phải nói rõ những tác dụng phụ của các món hàng).

Nói láo có mang tội không? Có đó, bao nhiêu gia đình tan gia bại sản vì nghe lời nói láo, hứa hẹn suông. Bao cô gái nhẹ dạ bị mất tình mất tiền bởi trái tim lừa lọc. Bao nhiêu dân tộc bị khốn đốn vì sự dối trá của chủ nghĩa, của lý thuyết, của ngọn cờ.!

Nói láo là điều không nên. Chúa hay Phật cũng có lời răn như thế. Một xã hội mà người dối người, anh dối em, cha mẹ dối con, trên dối dưới, dưới dối trên…, xã tắc sẽ loạn và chẳng chóng thì chầy thể chế đó sẽ bị lụi tàn, đất nước sẽ bị bại hoại và lệ thuộc.

Mong sao con người biết ngượng mồm khi nói láo, quan biết giữ lời hứa với dân. Mong sao chúng ta có một nền giáo dục chân thật không cần thành tích, không câu nệ hình thức để thành dối trá như hiện nay. Dối hay đi với trá. Khi nói dối, không tự nhận mà đổ lỗi cho những nguyên nhân khác (trá). Những lũ, lụt, ngập hại miền trung những năm qua và những nguyên nhân mà nhà nước đưa ra là sự “lừa dối” cho những nguyên nhân đích thực. Dối cũng đi đôi với lừa. Nói dối, nói láo đến khi thành niềm tin của người khác thì sẽ biến thành lừa đảo…


Thứ Tư, 23 tháng 4, 2025

30 - 4 - 1975

 MỘT CHẶN ĐỜI 50 NĂM

(1975 - 1925)

Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.

Đấy là một bi kịch đối với những con người Việt nam lưu vong thế hệ đầu tiên đến Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cho đến hôm nay thế hệ ấy còn rất ít và trong đó có tôi, tuy cuộc sống trên quê hương thứ hai thật đầy đủ, thật trọn vẹn cho một giấc mơ hoàn hảo, nhưng trong hồn tôi vẫn khôn nguôi nỗi ám ảnh lưu đày vì mãi chèo chiếc thuyền đời mình lênh đênh trên dòng sông xa cội nguồn gốc rễ.


THÁNG TƯ ĐEN


Cứ thế cuộc đời, mãi cuốn trôi

Tháng tư nay đến, lại than trời

Tháng Tư này nữa là bao nhỉ.?

Mà vẫn cách ngăn suốt cả đời


Bạc tóc tủi thân tuổi xế chiều

Hận sầu vong quốc với đăm chiêu

Thương dân gian khổ bao hờn oán

Màu đỏ Cộng nô bọn giáo điều...


Hỡi những cháu con giống Lạc Hồng

Cơ trời dân tộc buổi suy vong

Xin vì trung nghĩa nên giành lại

Đừng để mất đi những tấm lòng


Chớ để nhạt phai nét cổ xưa

Với trang thanh sử, dẫu giao mùa

Đã lâu "màu đỏ" gây tang tóc

Lắm kẻ "mặc nhiên" với "gió mưa".!


Nhìn những "đổi thay", nhạt "nắng phai".

Làm tim đau nhói nổi u hoài

Xót xa lòng dạ điều hưng phế

Lý Tống thế thời, phỉ chí trai


Hưng "Đỏ",Phế "Vàng" quả ngạc nhiên

Người thì "thay bến", kẻ ưu phiền

Thịnh suy càng rõ vàng hay đỏ

Máu đỏ phủ vàng thật đảo điên.!


Ngăn núi, cách sông chẳng thấy người

Âm thầm đồng đội bước ra khơi

Giữ thuyền ngay thẳng, lòng son sắt

Chớ để gió mưa mãi dập vùi.!


Đã bốn chín năm vẫn đợi trông

Mong anh gom sức, chị chung lòng

Vùng lên tiêu diệt loài gian ác

Trả nợ nước nhà với núi sông


Ánh chiếu sáng ngời rực tháng Tư

Quê hương tan sạch đám mây mù

Cờ Vàng tung cánh bay theo gió

Tổ quốc Việt Nam, sạch bóng thù


VỌNG PHU


Nếu thật 'vọng phu' hóa đá không.?

Bao người lo sợ dấu trong lòng

Chờ chồng tù tội bao năm tháng

Còn sống trở về khỏi nhớ mong


Năm tháng đợi chờ đã gặp may

Thương chồng "tù tội" đã bao lần

 Sống còn nay được chờ mong gặp

Đoàn tụ vợ con với tháng ngày


Ðường xa chiếc nón tung vành lá

Dành dụm thăm nuôi đã thật lâu

Em về bước thấp bước cao

Nước mưa, nước mắt lẫn vào nước non


TÔI BỎ ĐẢNG - THƠ CỦA PHAN HUY

Tôi Bỏ Đảng ??? 😱😳😡🤬

Đảng khốn kiếp chẳng thiết gì tổ quốc
Sẵn sàng dâng xã tắc của cha ông
Để cầu phong độc trị đến ngàn năm
Hàm thái thú đời cha truyền con nối.

Tôi sinh ra trên quê nghèo đất Bắc
Cộng sản nòi nối gót của cha anh
Bố của tôi, một cách mạng lão thành
Đi kháng chiến thuở tầm vông giáo mác.

Lúc còn nhỏ, tôi đã nghe về bác
Một ông già râu tóc bạc phơ phơ
Tôi hát bài, em thấy bác trong mơ
Cô giáo bảo, bác là tiên là phật.

Tôi lớn lên, nghe những lời đường mật
Được vào đoàn, vào đảng bác quang vinh
Cờ búa liềm, hình lãnh tụ Lê Nin
Thay tổ quốc và Hùng Vương dựng nước.

Đảng dạy tôi, chủ nghĩa mình siêu việt
Đưa năm châu lên thế giới đại đồng
Nhà nước ta của giai cấp công nông
Dân là chủ, đảng viên là đầy tớ.

Tôi ngất ngây trong hào quang lý tưởng
Tình nguyện vào chiến đấu ở miền Nam
Cứu đồng bào ra khỏi cảnh lầm than
Mà đảng nói do bàn tay Mỹ Ngụỵ.

Ánh sáng Miền Nam đưa tôi về chân lý
Vùng đất hiền hoà, nhân bản, phồn vinh
Cuộc sống tự do, dân chủ, nghĩa tình
Không sắt máu, căm thù, như Miền Bắc.

Tôi uất hận cho đảng mình láo khoét
Lùa dân vào một cuộc chiến tổn hao
Phung phí máu xương bộ đội, đồng bào
Để phục vụ cho quan thầy quốc tế.

Từ đó đảng hiện nguyên hình đồ tể
Vung búa liềm đập nát cả quê hương
Một miền Nam hạnh phúc hoá tang thương
Một xã hội thiên đường thành địa ngục.

Và bây giờ cả hai miền đất nước
Đã san nghèo cào khổ giống như nhau
Cùng đội chung cái ách nạn trên đầu
Một chủ nghĩa ngông cuồng đầy tội ác.

Người chủ nhân thành dân oan mất đất
Khóc vang đường, ngủ chật những vườn hoa
Người đầy tớ trên lầu cao chất ngất
Lợi ích đổi trao quanh yến tiệc rượu trà.

Thì ra đảng thầu bán buôn xương máu
Và biển trời sông núi để chia nhau
Nuôi bầy chó dữ, dưỡng đám giòi sâu
Quyết đàn áp những tấm lòng yêu nước.

Đảng cũng rước bọn Tàu ô xâm lược
Vào ém quân trên khắp cả ba miền
Để dự phòng khi dân Việt vùng lên
Sẽ đàn áp tiếp tay bầy giặc cướp.

Đảng khốn khiếp chẳng thiết gì tổ quốc
Sẵn sàng dâng xã tắc của cha ông
Để cầu phong độc trị đến ngàn năm
Hàm thái thú đời cha truyền con nối.

Đảng ghê tởm! tôi chán chường muốn ói
Xin trả người thẻ máu với cờ ma
Tôi sẽ đi về với nước non nhà
Cùng dân tộc dựng lại mùa quang phục.

DÒNG ĐỜI VẬN NƯỚC.

Bảy chục, bước qua đã tám mươi
Người già thêm tuổi tính thêm lười
"Sử Xanh" oanh liệt nên luôn nhớ
Vận nước góp công, mộng sẽ tươi
"Văn ngữ" thời xưa tìm hiểu gốc
Tinh hoa ngày mới, sánh vai người
Cao niên luôn giữ lòng son sắt
Mắt đọc chép ghi, để lại đời.

Tuổi tác đã tròn đúng tám mươi
Đời ta luôn phải, khóc hơn cườì
Ngẫm qua nhiều bận (1) binh đao ấy
Điểm lại mấy phen hậu vận tươi
Bọt nước hư danh lòng chẳng bợn
Vốn nhà gìn giữ chí không ngơi
Tri âm nào ngại so già trẻ
Dàn trải thẳng ngay với mọi người

(1) Tàu, Pháp, Nhật, Việt Cộng.

Tòa án có thể kết tội và bỏ tù một người bất đồng chính kiến, nhưng người bất đồng chính kiến có quyền không nhận cái tội đó, vì đơn giản bất đồng chính kiến không phải là tội.!

Một chế độ có thể cầm tù thể xác con người, nhưng không thể cầm tù tinh thần của họ. Hoặc là chết. Hoặc là phải được sống tự do. Thế nên con người ta luôn có xu hướng đấu tranh đòi cái tự do sống, kể cả những người cộng sản cách đây hơn 80 năm. Thế nhưng giành được tự do cho mình rồi, không có nghĩa là lại đi tước đoạt tự do của kẻ khác.

Có bao giờ nhà cầm quyền tự hỏi, tại sao chế độ ban hành đủ thứ luật để hạn chế, cấm đoán quyền con người mà vẫn không ngăn cản được họ lên tiếng không? Dường như họ quên một câu nói quen thuộc: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh” hay: “Ở đâu có áp bức, thì ở đó không thể có tự do, không thể có bình đẳng,v.v...“

QUYÉT SẠCH LŨ HỒ MAO

Con ong hút mật chuyển tồn kho
Đâu biết ai đâu, ác để dò
Cướp mật ong rồi còn lấy tổ
Cộng nô đục khoét biết làm sao?
Dân quê lam lũ luôn hòa khí
Làm lụng quanh năm chẳng đủ no
Đất ruộng nhiều đời còn để lại
Cháu con bám đất chẳng cần lo

Bịt mắt trói tay, chặt chém đầu
AK bom đạn giết người sao?
Chiếm nơi cư ngụ dân đang ở
Đảng bảo hiệ́n dâng, đất thế nào?

Quan lớn to mồm kinh hải quá
Ban ngày còn cướp tính làm sao?
Thi hành điều lợi chia cho đảng
Chủ tịch, bí thư cũng xía vào

Lộc Hưng chịu khổ biết làm sao
Gần Tết người dân trú chỗ nào?
Khiếu nại kêu la không giải quyết
Hỏi ai.!  Ác bá với cường hào?
Ngư dân nhờ biển mà sinh sống
Nhất quyết vin vào khổ biết bao
Từ thuở bao đời ngăn cách trở
Lòng dân giữ nước chống ngoại xâm

Tàu lạ cớ sao lại phá ta
Tàu phù, Tàu cộng, Formosa
Ngư dân ra biển bao nguy hiểm
Đánh đập, lấy dầu, xả độc ra
Chiếm biển dân chài lâm cảnh khổ
Quanh năm đời sống, chúng không tha
Dân kêu: Nhà nước "không lên tiếng"
Bán nước! "Mấy ai lớn tiếng la.!"

Hán gian lấn chiếm lộng hành chờ.!
Khi đám Ba Đình giống mặt mo
Cõng rắn vào nhà hang Pắc Bó
Tân thời thái thú Đảng nhà Hồ
Miệng mồm nhai bạc ra đầy máu
Như chó tham ăn ngoạm chất dơ
Ăn ráo, nên thành tư bản đỏ
Dân đen đói khổ ngóng trông chờ.!

NGHIÊNG NGỬA CƠ ĐỒ

Vì Sao chớm rụng gió vờn mây
Nghiêng tổ chim bay lạc mất bầy
Đổ nát tan hoang vì gió bão
Cơ đồ sấp ngửa tính sao đây?

Nghiêng vai gánh vác, nước cùng nhà
Lạnh lẽo chao mình thấy cạn khô
Buồn nỗi tang thương lòng khắc khoải
Nghiêng mình mất nước khóc cơ đồ.

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2025

CAO NGUYÊN PHỐ NÚI

 

Hồ Tà Đùng tỉnh Quãng Đức cách thành phố Ban Mê Thuột (Đarlac) khoảng 125 km.

CAO NGUYÊN PHỐ NÚI
- Quốc lộ 14 chạy qua địa phận các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Pleiku, Darlac, Quảng Đức và hai quận Bù Đăng, Bù Đốp thuộc tỉnh Bình Phước.
̣- Quốc lộ 14 dài 980 km, là con đường giao thông huyết mạch nối liền các tỉnh Cao nguyên với nhau.

Quàng Đức tốt tươi vùng đất đỏ
Như nàng thiếu nữ tuổi đôi mươi
Bâng khuâng dẫu chỉ lần đầu đến
Ngơ ngẩn đôi chân dệt mộng đầy.

Hoa đẹp hẹn nhau đón dã quỳ
Nẽo về rừng núi khúc tình si
Khách xa vừa đến hồn phiêu lãng
Nâng đóa sắc vàng nhịp bước đi...


Thác Đray Nur Darlac hùng vỹ giữa cao nguyên ngút ngàn.

Xe về ngang Quảng Đức
Bụi đỏ phủ ngập trời
Rừng cao su bát ngát
Darlac đến Buôn Hồ

Darlac quê tôi, đất bạc vàng
Cà phê ngon nhất, xứ cao nguyên
Ghé qua Lạc Thiện hồ thơ mộng
Rừng đẹp Cao su, thẳng tắp hàng

Darlac, Ban mê, xã Lạc Giao
Xe qua thành thị vẫy tay chào.
Cao Nguyên phố núi, cây tươi tốt.
Sức sống vươn lên giữa núi đồi


Đây là cầu Sông Bờ trước năm 1975... đầu cầu phía Đức Lập có bui tre bên phải. Ảnh này có thể chụp vào tháng 3 năm 1975 nên dưới gầm cầu có rất nhiều dấu xích xe tăng. Các trụ cầu được làm bằng sắt.
Cầu Quý Đức trụ cầu bằng bê tông, dưới gầm cầu đầy nước sông Ayun, không khô ráo như cầu sông Bờ. Nên nhớ hình chụp này khi chưa có đập Ayun hạ nên nước sông Ayun còn rất

Cheo Reo người trở lại
ta nhớ áo len hồng
Tràn đầy bao gợi nhớ
nay người đã sang sông

Tiếc sao không chờ đợi
Sông Bờ đã cách ngăn
chạnh lòng thương buốt giá
mùa đông đợi hao gầy

Tôi đã về thăm, tỉnh lộ xưa.
Những năm gian khổ ở quê nhà
Lần về rảo bước, chân xa lạ
Phú Bổn bây chừ sửa đổi tên

Thôn làng ngày ấy không còn nữa
Cảnh cũ giờ nầy đã đổi thay
Tìm hỏi người quen từ dạo nớ.!
Ra đi tới chốn chỗ mô rồi.?


Tại cửa ngõ của phố núi Pleiku, núi Hàm Rồng đứng sừng sững như chào đón những ai muốn khám phá về vẻ đẹp của thành phố này. Núi được tạo nên từ hoạt động phun trào núi lửa cách đây hơn triệu năm với độ cao 1.028m và được ví như nóc nhà của Pleiku, với những khu vườn cà phê, cao su, chè, tiêu… nhấp nhô theo những đồi dốc nhấp nhô.

Hàm Rồng ngay đầu ngõ
Đồi đất đỏ cà phê
Pleiku vùng thung lũng
Biển Hồ sở trồng chè

Sông nước núi đồi buồn thấm lạnh
Gió theo vờn lá cuối thu sang
Nhà bên dãy phố đèn không sáng
Hội Phú Hội Thương phố cuối đường

Phố núi Pleiku thấy thật gần
Đi quanh vài bước lại về ngay
Chỗ cũ đã qua chân trở lại
Đi dăm ba phút mãi không hay


Thác Yaly, một trong những thác nước hùng vĩ và đẹp nhất Cao Nguyên, nằm trên dòng sông Sê San, cách thành phố Kontum khoảng 80km về phía Tây Bắc.

Sao Mai, đèo đầu ngõ
Chào đón phố núi cao
Kontum miền đất trắng
Dakbla nước ngược dòng.!

Nhớ đến Kontum đường phố nhỏ
Dakbla bờ cát tuổi thơ ngây
Nhớ mùa mưa ngập, lên cầu gỗ
Không được tắm sông mỗi buổi chiều

Và cứ thế dòng đời trôi chảy mãi
Tóc ai xanh giờ đã điểm hai màu
Có muốn về để thăm lại chốn xưa
Đường không khó mà bây chừ rất khó

"Tôi ngồi không ngủ, nghe anh thở
Khe khẽ lòng buông tiếng thở dài"...

"Cao nguyên Trung Việt" nay thay đổi
Tên gọi "Tây nguyên" phía hướng Tây.

Quốc lộ 28 dài 312 km là đường bộ quan trọng nối liền từ Nam phần với Đà Lạt. Khởi hành từ Phan Thiết, đường này di qua những đoạn đèo dốc cao, thị trấn nhỏ cùa cao nguyên, dẫn đến thị xã Đà Lạt tỉnh Tuyên Đức, quận Bảo Lộc tỉnh Lâm Đồng một cách thuận tiện và dễ dàng.


Đến với Thác Camly Đàlạt không chỉ đem đến cho bạn những trải nghiệm trên hành trình di chuyển. Mà còn được ngắm nhìn vẻ đẹp thiên nhiên vô cùng hoang sơ hùng vỹ.

Đêm nay nghe mưa gió
Đà Lạt thấy mưa bay
Ánh mắt, bàn tay nhỏ
Đỏ hồng hoa lung lay

Thành phố buồn ai hiểu.
Đồi Thông Hai Mộ sầu
Hồ Xuân Hương lặng lẽ
Than Thở sắc tím màu

Lâm Đồng giờ vắng, bóng hình em
Nhớ tóc hương bay ngát trước hè
Ánh mắt hướng về nơi phố núi
Hồn em hoà quyện lẫn sương đêm

Đà Lạt
giờ nầy
đẫm
ước mơ

Ánh đèn
phai nhạt
dưới trăng mờ


Vẻ đẹp của ngọn thác Bobla trên cao nguyên Di Linh (Lâm Đồng) nổi tiếng về vẻ đẹp hùng vỹ.

Lâm Đồng,
Bảo Lộc, còn lạt lẽo.

Để phố bơ vơ,
phố thẫn thờ.

ANH CHO EM MÙA XUÂN

Trời mùa đông rừng núi
Se se lạnh vô cùng!
Bánh xe nào tung bụi
Phủ mờ lối vào nương

"Anh cho em mùa xuân"
Giọng ca buồn cảm xúc.!
Cô gái đầu cúi gục,
Xuân đến mà chẳng hay

Mớ tóc xanh đã bạc
Bờ môi hồng nhạt phai
Cho em làn gió mát
Đợi đến cơn mưa dài.!

Trời tiết đông phố núi
Cao nguyên lạnh vô cùng!
Nhóm lửa xua bóng tối
Khói quyện vào không trung?

CHUYẾN XE CƯỐI MÙA

cầm đóa hồng nở muộn
mùa thu đã đi qua
ẩn hiện sau vòm lá
lãng mạn chút tương tư

Cuối tháng tư chớm lạnh
qua hơi thở đất buồn
chân dẫm lên nền ẩm
sương khói phủ góc trời

con đường về yên lặng
nghe tất cả già nua
chuyến xe đêm từ giã
trời sắp chuyển cơn mưa

bên nhau một lần cuối
chia tay vào cuối năm
thâu đêm thường mất ngủ
ngước nhìn bóng trăng rằm

lời bài thơ thiếu ý
mịt mù lửa khói bay
thôi thúc lòng rung động
xa thẳm dải ngân hà

thế giới còn trước mắt
hôm qua và ngày mai
trời đem về giông bão
đánh thức những trái tim...
Tất cả cảm xúc