Thứ Tư, 7 tháng 5, 2025

ĐÔI TAY TỪ MẪU

 

ĐÔI TAY TỪ MẪU

Bàn tay mẹ, nuôi lớn đời con trẻ
Che chở con từ thuở mới tượng hình
Mẹ cưu mang, cực nhọ̣c chín tháng dài
Cất tiếng khóc, khi chào đời ngày mới

Dù thân mẹ, đớn đau ngăn trào lệ
Trìu mến thương, miệng bé nở nụ cười
Chắp hai tay mẹ khấn nguyện ơn trên
Mong con nhỏ an lành mau khôn lớn

Qua những bước, con lớn lên không dễ
Thăng-Giáng-Trầm, của trần thế nhiễu nhương
Tưởng lắm khi đàn phải đứt dây cung
Mẹ xuất hiện, trong âm thầm nâng đỡ

Cũng nhờ thế, đờn ca không lỗi nhịp
Con ung dung cất giọng kịp cung đàn
Cùng mây trời rong ruổi khắp trần gian
Quên bóng mẹ đang chờ con từng phút

Con vấp ngã, mới nhận ra điều ấy
Mẹ bên đời, con sẽ thấy yên tâm
Chớ vô tình, để làm mất nụ cười
"Ngày của Mẹ", trọn một đời luôn nhớ...

PHẬN CON CHÁU

Công cha nghĩa mẹ sinh thành
Làm con phải nhớ ngọn ngành chớ quên.

Vâng, đúng như vậy. Mọi người sinh ra đều mang trong mình một tình mẫu tử thiêng liêng và cao cả. Tình mẹ ấm áp, bao dung dành cho con hay tình cảm kính trọng yêu quý của những đứa con dành cho mẹ mình cùng bao điều tốt đẹp.

Tình mẫu tử của mẹ và con là thứ tình cảm đáng qúy nhất, mà suốt cuộc đời này những đứa con sẽ mãi trân trọng. Dù “ tung cánh muôn phương”, con vẫn mãi mang theo tình mẫu tử cao đẹp mà mẹ dành cho con. Chúng ta đang và đã được nhận tình mẫu tử thiêng liêng ấy, hãy cố gắng trân trọng và giữ gìn vì nếu như một ngày nào đó, tình thân ấy không còn thi` cuộc sống sẽ trở nên tẻ nhạt.

Ôi ! Tình mẫu tử thật cao đẹp biết bao...Với nhiều "tiếc nuối".

TIẾC NUỐI

Con muốn viết, bài thơ tặng mẹ
Nhưng ngôn từ, trót chẳng nên câu,
Cùng năm tháng, sống đời phiêu bạt
Nhớ mẹ hiền, lòng dạ khó phai.!

Con đã nhớ, lời ru của mẹ
Tiếng à ơi, thuở mới nằm nôi
Và sau đó chẳng còn ai hát.!
Vì Mẹ già, như chuối chín cây…!

Theo văn hóa, đạo đức của người Việt. Phận làm con, trong gia đình là phải chăm sóc cha mẹ khi già yếu, sự hiếu đạo đó không thể bỏ quên hay lảng tránh được. Sự yên vui quây quần bên cha mẹ già và con cháu là niềm hạnh phúc của gia đình. Với chúng ta mà nói, làm được điều gì vui cho cha mẹ là làm, từ thăm hỏi, quà tặng đến chăm sóc, tâm tình, chỉ cần thấy nụ cười của cha mẹ đã là điều sung sướng không gì đánh đổi được. Có cha mẹ để chăm lo, tạo thêm hơi ấm cho gia đình, đó mới là hiếu đạo của phận làm con.

Ngược lại, chúng ta đã xao lãng, tránh né hoặc bất cứ lý do gì.! Mà quên đi phận làm con đối với cha mẹ khi còn sống, nhất là người đã hy sinh nhiều công sức để tạo dựng nên sự nghiệp, mà chúng ta có được như ngày nay... Với thành quả đó, một phần lớn là từ tình thương yêu vô bờ bến, sự lo lắng không quản ngại của đấng sinh thành. Đáp lại, chúng ta phận làm con, dâu, rể, cháu chắt nội ngoại đã làm được điều gì để tỏ lòng hiếu đạo chưa.?

Trên đời, mỗi người chỉ có một lần được cha mẹ tạo nên, dưỡng dục nên người, cũng chính là lúc cha mẹ tuổi tác già nua, bệnh tật phát sinh, tinh thần sụt giảm, sức khỏe suy yếu, nói năng chậm rãi, ăn uống khó khăn, tay chân run rẩy, mắt nhìn không tỏ, tai nghe chẳng rõ.v.v...

Chính lúc nầy, con cái nạnh hẹ (tị nạnh) lẫn nhau, hoặc thờ ơ, tránh né trách nhiệm và bổn phận làm con cháu đối cha mẹ, ông bà. Bây giờ chúng ta đã có gia đình, con cháu, có giây phút nào tự soát xét lại bản thân mình hay không.!!! Để thấy rằng mình đã đánh mất một cơ hội duy nhất trong đới, đó là sự đáp đền lòng hiếu thảo của mình qua phận con, cháu, dâu rể, nội ngoại...

Trước khi quá muộn, vậy ngay bây giờ nhân "ngày của mẹ" và "ngày của cha" sắp tới, cũng như mỗi ngày, mỗi giờ, phút, giây, còn hít thở không khí để sống, thì chúng ta phải thành thật từ đáy lòng, ăn năn hối cải những gì sai trái mà ta đã hành xử đối với cha mẹ, ông bà hiện giờ và trước đây. Ăn năn Sám hối để được thứ tha.

HỐI HẬN

"Ngày của mẹ", chẳng mua chi, biếu Mẹ.!
Không có gì, để tặng Mẹ làm quà
Nhớ hay quên, để ngày ấy trôi qua
Không lời chúc, không hỏi thăm sức khỏe.!
Ngày ấy.thiếu.! Chẳng còn gì vui vẻ
Tình mẹ con, hành xử thế vô tình.
Giờ đơn côi, nghĩ đến nhói đau tim
Con quỳ lạy, Mẹ Cha.! Xin tạ lỗi.


Thứ Ba, 6 tháng 5, 2025

NGÀY CỦA MẸ.(9/5/2021)

 


NGÀY CỦA MẸ.

Ngày của Mẹ. Đây là dịp để tôn vinh người mẹ, đem đến cho mẹ bằng tất cả tình yêu, sự quan tâm và sự ấm áp của chúng ta. Vào đêm trước Ngày của Mẹ, chúng ta sẽ nhắc đến những điều tuyệt vời về mẹ, niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời mỗi người là được Mẹ sinh ra. Một số điều liên quan đến khoảnh khắc tuyệt vời Ngày của Mẹ. Nếu chúng ta muốn chia xẻ những điều này với bạn bè hoặc với tất cả mọi người!
NHÂN NGÀY TỪ MẪU: Mong được gởi đôi lời tâm tình đến các Bà Mẹ.
Ngày Chủ Nhật thứ nhì của tháng 5 là ngày Từ Mẫu, ngày người Hoa Kỳ dành ra để con cái ghi nhớ công ơn của Mẹ. Đây là ngày mọi người bày tỏ lòng biết ơn người mẹ yêu dấu của chúng ta. Nhân ngày Từ Mẫu, chúng ta nên chia xẻ vài lời tâm tình với quý bà mẹ trẻ, là những bà mẹ còn được diễm phúc có những đứa con nhỏ chạy theo níu áo hoặc quấn quýt bên chân.
Làm mẹ là một thiên chức vô cùng cao quý. Người nữ có những cá tính, khả năng và trách nhiệm riêng biệt. Phái nữ với một cơ thể đặc biệt để mang thai và sinh con. Người phụ nữ tâm hồn mềm mại, tấm lòng yêu thương và tâm tính dịu dàng để trang bị cho họ trách nhiệm làm mẹ, một trách nhiệm vô cùng quan trọng và cao quý nhất trong đời.
Không những làm mẹ là thiên chức cao quý mà con cái cũng là món quà đặc biệt, khi mắt nhìn thấy và tay có thể ôm giữ. Con cái là món quà quý nhất, nên vai trò làm mẹ lại quan trọng hơn, vì mẹ là người có ảnh hưởng sâu đậm nhất trên đời sống của con. Mỗi người sống trên đời chỉ có một bà mẹ sinh ra, và trong vai trò làm mẹ, đó là một cơ hội duy nhất, một thời điểm duy nhất để tạo ảnh hưởng nơi con cái. Khi thời điểm đó qua đi, chúng ta không bao giờ tìm lại được nữa. Vì những lý do đó, làm mẹ là trách nhiệm lớn lao và quan trọng mà chúng ta không thể xem nhẹ hay để cho người khác thay thế. Đây là trách nhiệm lớn lao trong vai trò làm mẹ. Tình mẹ con là tình cảm đầu tiên một đứa bé nhận được, cũng là tình cảm đầu tiên đứa bé ban cho. Sự hiện diện cũng như sự chăm sóc vỗ về của mẹ khiến đứa bé cảm thấy bình an, vững lòng. Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, bình thường một đứa bé lớn lên trở thành một người như thế nào phần lớn là do ảnh hưởng của người mẹ. Con cái là phước lành và là cơ nghiệp ban cho con người. Chúng ta không nên xem con như là gánh nặng hay là điều phiền phức, cản trở công việc làm hay ngăn cản sự thăng tiến của chúng ta. Có người lập gia đình nhưng không muốn có con, sợ có con đời sống sẽ bị xáo trộn, không làm được những gì mình muốn làm. Cũng có người sợ sinh con rồi vóc dáng của mình xấu đi. Đây thật là một nỗi lo sợ viển vông, ích kỷ và không chính đáng. Đúng, có thể vì sinh con, vóc dáng người mẹ thay đổi; cũng có thể vì có con mà những toan tính, ước mơ của mẹ phải đổi thay hoặc phải hủy bỏ. Nhưng niềm vui được làm mẹ, được bế đứa con trong tay, được nuôi nấng chăm sóc cho con lớn lên và nhất là truyền đạt cho con những giá trị cao quý, niềm vui đó không gì so sánh được.
Con cái là niềm vui, là điều quý nhất trong cuộc đời, nhưng con chỉ cần mẹ khi còn nhỏ và mẹ cũng chỉ có thể dạy dỗ uốn nắn con khi còn bé. Vì thế, lời tâm tình muốn gởi đến các bà mẹ trẻ hôm nay là, vì con cái là gia sản quý báu nhất trên đời, chúng ta cần đặt con vào ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống của chúng ta. Những bà mẹ đang có con trong tuổi mới sinh cho đến khoảng mười hai, mười ba, các bạn đang sống những ngày đẹp nhất trong vai trò làm mẹ. Khi con qua tuổi đó rồi, chúng ta thường phải đối diện với nhiều lo lắng và buồn đau vì những thay đổi nơi con và thay đổi trong đời sống. Nếu trong thời gian này, là thời gian con cần được ở bên mẹ, các bạn có thể tạm gác những công việc hay mục tiêu khác qua một bên, hy sinh tất cả để dành thì giờ cho con, có mặt bên cạnh con, gần gũi trò chuyện với con, thì những năm tháng sau đó, khi con bắt đầu chuyển mình, thay đổi, khi con đến tuổi trưởng thành phải lìa xa cha mẹ, cũng như khi mẹ bước vào tuổi xế chiều, phải đối diện với sự trống vắng trong gia đình, chúng ta sẽ không có gì phải ân hận nuối tiếc. Nói một cách thực tế, điều quý nhất mà các bà mẹ có con nhỏ có thể làm cho con là dành thì giờ cho con. Ngoại trừ những hoàn cảnh bất khả kháng, còn nếu các bà mẹ trẻ có thể sắp xếp thế nào để có thể làm mẹ trọn thì giờ, chính tay mình chăm sóc, dạy dỗ con, có mặt bên cạnh con hằng ngày, ít nhất là trong năm năm đầu, đó là điều tốt nhất cho con. Nếu chúng ta chấp nhận có thể sống đơn giản lại, có thể là chật vật một chút; nếu chúng ta có thể tạm gác qua một bên những ước mơ về vật chất, học vấn, công danh sự nghiệp của chính mình để dành trọn thì giờ cho con, đó là điều quý nhất chúng ta có thể làm cho con cũng như cho hạnh phúc của gia đình và sự an toàn của xã hội. Các thống kê cho biết, tỉ số các bà mẹ đi làm và tỷ số thanh thiếu niên phạm pháp gia tăng song song với nhau. Tại Hoa Kỳ, trong thập niên 60 chỉ có 30-32% các bà mẹ đi làm, ngày nay số bà mẹ có con nhỏ đi làm lên đến 72%. Và con số các em thiếu nhi, thiếu niên phạm pháp, bạo hành ngày nay gia tăng như thế nào chúng ta đều biết. Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng thương con mình phải gởi con đi làm, để có tiền cung ứng cho con đầy đủ vật chất, để con khỏi mặc cảm với bạn bè, con được ăn học đến nơi đến chốn, để con có một tương lai tươi sáng, có đời sống tốt đẹp. Nhưng các bạn biết không, đó là điều chúng ta nghĩ là con cần chứ không phải là điều các em thật sự cần ngay trong lúc này. Điều mà con chúng ta cần và mong muốn nhiều nhất, kể cả những em trong tuổi thanh thiếu niên, là muốn có mẹ ở bên cạnh khi các em cần đến. Thương con và muốn con được đầy đủ vật chất, chúng ta ra sức đi làm. Vì đi làm mệt nhọc, tinh thần chúng ta bị căng thẳng. Khi tinh thần căng thẳng và thân xác mỏi mệt vợ chồng cau có với nhau, phiền giận nhau, cha mẹ bực bội với con cái, con cái không được cha mẹ chăm sóc gần gũi cũng buồn bực khó chịu. Tất cả những điều đó khiến không khí trong gia đình căng thẳng, con cái sợ hãi, lo lắng, bất an. Vì đặt thứ tự ưu tiên sai chỗ, chúng ta vô tình đem lại thiệt hại và đau buồn cho những đứa con mà chúng ta yêu thương hơn hết.
Chúng ta, nghe những lời tâm tình sau đây để thấy con cái cần mẹ có mặt ở nhà như thế nào.

- Một thanh niên 27 tuổi nói: Khi học lớp 8, tôi học tệ lắm nên cha mẹ tôi rất buồn. Cô giáo nói tôi thông minh nhưng không chịu cố gắng. Lên trung học tôi càng học dở hơn nữa. Mẹ tôi lo lắm, lúc đó có người đề nghị mẹ tôi nên nghỉ làm để dạy tôi học ở nhà. Mẹ tôi liền thử nghỉ làm ở nhà dạy tôi. Từ đó gia đình chúng tôi không còn đi ăn tiệm, cũng không còn những chuyến nghỉ hè xa. Cha mẹ tôi cũng không còn đi xe mới như trước, nhưng điểm của tôi bắt đầu khá lên. Nhờ mẹ can đảm nghỉ làm, ở nhà lo cho tôi trong thời gian tôi cần mẹ nên tôi đã vượt qua những khó khăn trong tuổi thiếu niên. Hôm nay tôi đã học xong chương trình cao học. Tất cả là nhờ ở sự hy sinh của mẹ tôi.

- Một em bé gái 8 tuổi nói: "Mỗi ngày mẹ giúp em làm toán, đọc sách. Có khi mẹ chơi trò chơi với em. Khi em bị té trầy chân, mẹ xức thuốc rồi băng lại cho em. Mỗi buổi chiều em đi học về, mẹ đón em ở chỗ xe bus, dẫn em về nhà, cho em uống sữa, ăn bánh. Khi đi học về, em thích có mẹ ở nhà, em không thích về căn nhà trống không, không có mẹ".

- Một bà mẹ có ba đứa con nhỏ, từ hai đến sáu tuổi. Mỗi buổi tối, khi mẹ dỗ đi ngủ các em thường hỏi: “Mẹ ơi, mai mẹ có phải đi làm không?” Bà mẹ nói: “Có, mai mẹ phải đi làm.” Mấy đứa bé nói: “Mẹ đi làm một ngày nữa thôi phải không?” Bà mẹ rất buồn nhưng không biết trả lời làm sao. Ít lâu sau, bà mẹ bị đau chân phải ở nhà suốt ba tuần, mấy đứa con ngày nào cũng vây quanh mẹ, rất là sung sướng. Tối đến, các em cũng hỏi: “Mai mẹ có đi làm không?” Khi mẹ nói: “Mai mẹ không đi làm, mẹ ở nhà với mấy đứa con.” Ba em nhỏ reo lên sung sướng. Nhìn thấy nỗi vui sướng rõ ràng của các con khi được có mẹ ở nhà, bà mẹ đó quyết định nghỉ việc ở nhà với con. Ngày nay đã năm năm trôi qua, người mẹ đã giúp mình nhìn thấy đâu là ưu tiên trong đời, và đã quyết định đúng.

- Một em gái 4 tuổi. Mỗi ngày mẹ đi làm em chạy theo khóc. Mẹ bảo đừng khóc, mẹ đi làm để có tiền mua áo quần, đồ chơi cho con. Sáng hôm sau, khi mẹ bước ra cửa, đứa bé chạy vào phòng lấy mấy mươi xu đưa cho mẹ nói: “Mẹ ơi, con cho mẹ tiền nè, mẹ ở nhà với con nhe".!

Chúng ta thường nhận thư Chủ nhật vừa qua hoặc có đọc những tờ quảng cáo gởi đến nhà trong tuần này, có lẽ ta thấy hầu hết các báo chỉ quảng cáo một điều, đó là những món quà để chúng ta mua cho mẹ nhân dịp Mother’s Day vào cuối tuần này. Tờ quảng cáo nào cũng thật đẹp, đầy đủ các loại nữ trang, quần áo, giày dép, vật dụng cho nhà bếp, phòng ngủ, các loại cây kiểng, hoa, các loại mỹ phẩm, nước hoa, khung hình, v.v… Tất cả những gì mà các bà mẹ thường cần dùng hoặc yêu chuộng. Mỗi tờ báo cũng có một câu quảng cáo riêng như:

- Đây là những món quà hoàn hảo nhất!
- Hãy cảm ơn mẹ bằng món quà đặc biệt nhất!
Tờ thì ghi:
- Hãy tặng mẹ món quà khiến mẹ mỉm cười sung sướng!-
- Hãy đãi ngộ mẹ bằng món quà độc đáo nhất!
- Hãy làm cho ngày đặc biệt của mẹ sáng chói như vàng!
- Hãy làm cho mẹ ngạc nhiên sung sướng với món quà trong trang này!
- Đây là những món quà hợp với nhu cầu của mẹ nhất!
- Đây là món quà nói lên lòng quan tâm của ta nhất.
- Hãy tặng món quà này để nói lên tình yêu sâu đậm ta dành cho mẹ.v.v…

Dĩ nhiên mục đích của người quảng cáo là nói thế nào để món hàng của mình bán chạy nhất. Ngày Từ Mẫu là dịp tốt để chúng ta tặng quà cho người đã mang nặng đẻ đau để đem chúng ta vào đời, và đã chịu bao nhiêu khổ cực để nuôi dạy chúng ta nên người. Tuy nhiên, nhu cầu lớn nhất của mẹ, điều mà mẹ cần, mẹ quý và mong muốn nhận được nơi con cái hơn hết không phải là những món quà bày bán trong các cửa hàng mà là "Tình Thương Yêu Chân Thành của con cái". Tình thương đó bao gồm lòng biết ơn, kính trọng, thông cảm và chấp nhận. Đây là điều mà các bà mẹ trông mong được nhìn thấy và cảm nhận nơi những đứa con đã trưởng thành. Những điều này tiền bạc không mua được mà vật chất hay quà cáp cũng không thay thế được.
Như chúng ta đều biết, khi con còn nhỏ con cần mẹ, nhưng khi con đã lớn mẹ rất cần con. Mẹ cần tình thương của con, mẹ cần thì giờ, cần sự hiện diện của con, nhất là sự kính trọng và thông cảm của con. Khi một người đã làm xong một công tác hay một trách nhiệm nào, người đó thường hay nhìn lại việc mình làm để lượng giá. Những bậc phụ huynh có con cái đã lớn, đã ra đời tự lập cũng thường nhìn lại quá khứ, nghĩ lại cách mình nuôi dạy con ngày trước và vì là con người bất toàn, các cụ không khỏi có những lỗi lầm mà bây giờ ân hận và hối tiếc. Nếu trong một trách nhiệm nào khác, chúng ta có thể nhìn lại, lượng giá công việc của mình và rút kinh nghiệm cho lần tới. Trong trách nhiệm làm cha mẹ, chúng ta không có cơ hội thứ hai, chúng ta cũng không thể quay ngược thời gian để sửa lại những điều sai trật. Vì lý do đó, nỗi ân hận hối tiếc của cha mẹ rất lớn và cha mẹ chỉ mong con cái thông cảm, bỏ qua và vẫn một lòng kính yêu cha mẹ.
Nếu những người con định mua một món quà đặc biệt để tặng cho mẹ vào Chủ Nhật này, đó là điều tốt, nên làm. Nhưng nếu chúng ta dùng món quà đó để thay thế lòng thương yêu và biết ơn mẹ, để khỏi phải đối diện với mẹ, món quà đó sẽ không có ý nghĩa gì. Hoặc nếu chúng ta tặng quà cho mẹ như là một thông lệ, không kèm theo lòng thương yêu chân thành, món quà đó cũng vô nghĩa. Ngược lại, nếu chúng ta làm được những điều sau đây trước khi tặng quà cho mẹ hoặc kèm với món quà cho mẹ thì chúng ta thật sự tặng cho mẹ một món quà quý giá, đúng với điều mẹ đang cần.
Trước hết, nếu chúng ta có điều gì buồn giận mẹ, hãy bỏ qua và quên đi. Dù mẹ có làm điều gì khiến ta buồn, mẹ cũng là người yêu thương ta nhất trên đời và chắc chắn là mẹ không cố tình gây đau buồn cho ta. Nếu chúng ta đã làm một điều gì cho mẹ buồn trong những ngày qua hay những năm tháng qua, dù ta lầm lỡ chứ không cố tình, hãy xin lỗi mẹ và bằng mọi cách giải hòa với mẹ. Nếu chúng ta đã thiếu sót trong bổn phận làm con, đã có những hành động hay lời nói làm mẹ bị tổn thương, đây là dịp tốt để chúng ta nhận lỗi, xin lỗi và làm một điều gì đó để cho mẹ cảm nhận được tình thương của ta. Nếu những tháng ngày qua vì bận rộn, chúng ta đã quên thăm hỏi, chăm sóc mẹ, hãy dành thì giờ cho mẹ, gọi điện thoại, viết thư nếu mẹ ở xa. Nếu mẹ ở gần, đưa con cái đến thăm.
Nếu chúng ta không làm những điều kể trên để nối lại tình mẹ con, để bày tỏ lòng thương yêu, hiếu kính của ta đối với mẹ, sẽ không ai làm thay cho chúng ta. Chúng ta chỉ có một người mẹ duy nhất trong đời, dù mẹ có đông con, ta vẫn chiếm một chỗ đặc biệt trong trái tim của mẹ. Hãy làm điều ta có thể làm hôm nay để tình mẹ con được tốt đẹp, ngọt ngào, vì ngày mai cơ hội sẽ không còn.

"Hãy hiếu kính cha mẹ, cho Người được sống lâu trên cỏi trần. Chớ lánh xa họ khi Người trở nên già yếu".

Chúng ta cùng chia xẻ với nhau qua lời tâm tình của một người con: Trong tâm trí tôi mẹ tôi lúc nào cũng 50 tuổi, khoẻ mạnh, vui vẻ và sẵn sàng hỗ trợ con cái trong mọi việc. Khi gọi điện thoại hay viết thư cho mẹ, tôi cũng luôn luôn giữ trong trí hình ảnh một người đàn bà năm mươi tuổi, vui vẻ, khỏe mạnh, đó là người mẹ mà tôi nói chuyện qua cánh thư hay qua điện thoại. Mẹ là người duy nhất mà anh em chúng tôi chạy đến mỗi khi gặp nan đề trong đời sống. Lúc nào mẹ cũng có thì giờ cho chúng tôi. Không bao giờ mẹ nói: mẹ bận quá, hẹn con khi khác. Không, chúng tôi là ưu tiên trong cuộc đời của mẹ. Và dù nan đề lớn bao nhiêu, khó bao nhiêu, mẹ cũng giúp chúng tôi tìm ra lời giải đáp. Mẹ cầu nguyện cho chúng tôi và dùng những lời khuyên giải giúp chúng tôi nhìn thấy vấn đề và giải quyết theo phương cách tốt đẹp nhất. Gần đây được gặp lại mẹ, lòng tôi đau đớn khi thấy lưng mẹ đã hơi còm, làn da mẹ nhăn hơn trước, bước đi và cử chỉ của mẹ chậm chạp chứ không nhanh nhẹn như trước. Khi bước lên bậc tam cấp, mẹ phải bám víu vào một vật gì hay người bên cạnh, tôi ngoảnh mặt đi không dám nhìn. Một thực tế phũ phàng đánh mạnh vào tâm trí tôi: Thực tế đó là: Mẹ tôi đã già. Dù tôi không muốn, không chấp nhận và dù tôi có cố gắng làm gì đi nữa, sự thật trước mắt là mẹ tôi hôm nay không còn là một phụ nữ trung niên, ở tuổi năm mươi, khỏe mạnh, tươi vui nhưng là một bà cụ già yếu ớt, mắt không nhìn rõ, chân bước không vững vàng, không còn sức lực như những ngày trước.
Tại sao sự kiện mẹ tôi trở nên già yếu khiến tôi đau buồn? Tại sao tôi không muốn chấp nhận thực tế đó? Bởi vì công nhận mẹ đã già có nghĩa là một ngày kia mẹ sẽ không còn trên đời này nữa và tôi sẽ mất mẹ vĩnh viễn.
Một ngày kia tôi sẽ gọi điện thoại cho mẹ để nói chuyện, là điều tôi vẫn làm hằng trăm hằng ngàn lần trước kia, làm một cách thường xuyên, không suy nghĩ, nhưng mẹ sẽ không còn đó nữa để trả lời điện thoại cho tôi. Nếu tôi viết thư cho mẹ, mẹ sẽ không nhận, không đọc và tôi sẽ chẳng bao giờ nhận được hồi âm. Khi gặp khó khăn trong cuộc sống, tôi sẽ không thể chạy đến với mẹ để được khuyên răn, an ủi, vỗ về. Tôi sẽ mất đi một người suốt đời nâng đỡ tôi bằng lời cầu nguyện. Tôi không muốn chấp nhận cái sự thật đau đớn, một sự thật không tránh được là mẹ tôi đang mỗi ngày một già yếu hơn, vì thực tế đó đau đớn quá. Nếu mẹ không còn trên đời này, khi gặp khó khăn tôi biết chạy đến với ai để tìm sự an ủi, hướng dẫn? Mẹ là người thương tôi, hiểu tôi và dìu dắt tôi suốt cả cuộc đời. Vì thế tôi sẽ lừa dối chính mình và nghĩ rằng mẹ chỉ mới năm mươi tuổi và mẹ sẽ sống mãi để tôi có thể nương tựa. Tại sao thời gian trôi mau quá như vậy, những năm tháng trong quá khứ đã đi về đâu? Tôi không có câu trả lời, nhưng tôi chỉ biết một điều, tôi là người may mắn được có một người mẹ như mẹ của tôi, và ngày nào mẹ còn sống, ngày đó tôi tiếp tục cảm tạ ơn Trên đã dành tặng cho đời tôi một người Mẹ. Tôi sẽ cố gắng làm những gì tôi có thể làm được để những ngày cuối cùng của mẹ trên đời này được thỏa vui nhẹ nhàng, và để khi mẹ không còn nữa, tôi sẽ thương nhớ mẹ với tấm lòng thanh thản vì tôi đã làm tròn bổn phận của một người con.
Trang trọng kính chúc tất cả quý bà mẹ một ngày Mother’s Day vui vẻ, phước hạnh bên con cháu.

Thứ Năm, 1 tháng 5, 2025

MỘT CHẶN ĐỜI 50 NĂM (1975 - 1925)

 


MỘT CHẶN ĐỜI 50 NĂM
(1975 - 1925)

Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.

Đấy là một bi kịch đối với những con người Việt nam lưu vong thế hệ đầu tiên đến Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cho đến hôm nay thế hệ ấy còn rất ít và trong đó có tôi, tuy cuộc sống trên quê hương thứ hai thật đầy đủ, thật trọn vẹn cho một giấc mơ hoàn hảo, nhưng trong hồn tôi vẫn khôn nguôi nỗi ám ảnh lưu đày vì mãi chèo chiếc thuyền đời mình lênh đênh trên dòng sông xa cội nguồn gốc rễ.

THÁNG 4 VỚI KỶ NIỆM
ĐAU THƯƠNG KHÓ QUÊN.!

Tháng của sự hoảng loạn, lo âu và cuối cùng là phải rời bỏ quê hương bắt đầu MỘT KIẾP SỐNG MỚI với những ngày lưu lạc.

Ba mươi tháng 4, ngày tất cả người dân ở miền Nam VN CỘNG HÒA PHẢI ĐỔI KIẾP. Tất cả chúng ta bỗng dưng ” bừng con mắt dậy thấy mình tay không “. Không nhà cửa, danh vọng , tiền bạc. Đang có cuộc sống đầy đủ, an vui, tự do. Chỉ vài ngày, cả một cuộc đời như bị xóa hết để trở thành những người khốn khổ trắng tay. Một số phải rời bỏ quê hương. Số còn kẹt lại bị trù dập, trăm cay nghìn đắng.

Sau 30/4/1975 quê hương chúng ta đã nghìn trùng xa cách cho những người phải ra đi. Những người còn kẹt lại thì dù vẫn được sống trên quê hương nhưng đã là một quê hương hoàn toàn đổi mới dưới ách thống trị của cộng sản. Những ngày tự do, êm ấm cũng không còn nữa.

Ngày lụn xuân tàn thuở ấy, cách nay đã 50 năm (1975 - 2025). Một cuộc đổi mới dẫn đến loạn lạc xã hội, ly tán gia đình. Máu tiếp tục đổ sau chiến tranh.

Lệ nóng trào tuôn, hòa thêm vị mặn trên đại dương thống khổ. Hàng trăm nghìn gia đình bị đẩy lên những vùng rừng thiêng nước độc để canh tác mưu sinh lập đời mới. Hàng trăm nghìn sĩ quan, công chức chế độ cũ bị biệt giam hoặc bị cưỡng bức lao động khổ sai trong những trại tù ở những mật khu tận những rừng già sâu thẳm xa xôi. Và, từng đoàn người già trẻ dắt díu nhau băng rừng vượt biên, xuống thuyền vượt biển, tìm đến những vùng trời tự do. Lên rừng, xuống biển, có vẻ như lặp lại huyền sử mấy ngàn năm của tộc Việt. Nhưng cuộc chia tay trong lịch sử cận đại không chỉ có năm mươi con lên núi, năm mươi con xuống biển, mà là cả triệu con dân, hớt hãi tìm đường sống, âm thầm trong đêm, mẹ cha câm nín, con trẻ nén khóc, rón rén những bước chân hồi hộp, run sợ. Nỗi đau thương thống hận ngập tràn của ngần ấy con người, ngần ấy gia đình, không hề được ghi vào sử sách giáo khoa, mà chỉ được ngậm ngùi khơi dậy trong tâm khảm những người tị nạn năm xưa, đã là những cổ nhân hữu danh vô danh, hay đang là những người lão niên lặng lẽ đời mình ở những vùng trời phương xa, đất khách quê người...

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

TRƯỜNG XƯA






                Lớp Đệ nhị B1 niên khóa 1961-1962


Chúng ta lạc, giữa dòng đời xuôi ngược
Giữa bộn bề những toan tính thiệt hơn
Nhìn ngoảnh lại bảy mươi năm có lẻ
Có đứa còn, có bạn hóa hư vô

Muôn Màu Hoa Nở

  
Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung Oán Ngâm Khúc, đã diễn tả sắc đẹp ước lệ của cung nữ bằng 4 câu thơ tuyệt tác:


Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt, say hoa
Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình


Bốn câu thơ trên đã ví von vẻ đẹp cung nữ với 4 vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Tứ Đại Mỹ Nhân trong sử sách Trung Hoa: Trầm ngư-lạc nhạn-bế nguyệt-tu hoa:

Tứ đại mỹ nhân trong lịch sử
Trung Hoa phong kiến của ngày xưa
Toa nhân mặc khách lòng xao xuyến
Sắc đẹp kiêu sa thấy mặn mà


- Vẻ đẹp trầm ngư- cá lặn, của Tậy Thi
- Vẻ đẹp lạc nhạn-chim sa, của Chiêu Quân
- Vẻ đẹp bế nguyệt- đắm nguyệt, của Điêu Thuyền
- Vẻ đẹp tu hoa-say hoa, của Dương Quý Phi


Nha Trang, thành phố của cát trắng dừa xanh, khoảng thập niên 60-70 cũng có 4 người đẹp trong giới giáo chức, luôn luôn bối tóc đến trường, được học sinh và giáo chức Võ Tánh và Nữ Trung Học thân tặng danh hiệu Tứ Đại Mỹ Nhân:


- Nàng Chiêu Quân, Hiệu Trưởng Huyền Trân-Nữ Trung Học: Diệu Trang
- Nàng Điêu Thuyền, GS hội họa Nữ Trung Học: Thanh Trí
- Nàng Dương Quý Phi, GS Trường Võ Tánh: Tường Qui
- Nàng Tây Thi, GS Pháp văn Trường Võ Tánh: Kim Thành


TÌM VỀ TRƯỜNG XƯA


 

Tôi nhớ ! gợi lòng về chốn cũ
Thăm lại trường xưa tuổi học trò
Ôi !Võ Tánh Nha Trang hai mùa mưa nắng
Khó mà quên!
Một thuở mặn nồng
Ngày đêm khắc khoải!

Mấy mươi năm dài nương đời viễn xứ
Chừ gặp nhau tay bắt mặt mừng
Mừng anh vẫn khỏe
Mừng chị vẫn tươi
Tóc đã điểm sương mà nụ cười chưa héo
Thương những bạn hiền khuất cuối chân mây

Học trò tôi tuổi cũng khá đầy
Bên cô giáo cũ lòng như mở hội
Những ánh mắt
Những cánh tay
Những hân hoan rộn ràng dấu ái
Là hoa xuân nở rộ giữa mùa đông
Là tinh khôi hạnh phúc vô ngần...

“Cô nhớ em không?
Cô nhớ em không?
Phấn trắng trên tay cô để đâu rồi?...”

Hoài niệm bồi hồi
Theo từng câu hỏi
Hoài niệm mơn man
Theo từng khuôn mặt đậm nét thời gian
Tim tôi rưng rưng
Vội vàng mở cửa
Cố ngăn dòng lệ ứa
Sợ mắt ướt nhạt nhòe lộ nét phôi phai

Tuổi đời qua nhanh
Đã mấy lần mười hai con giáp
Tiếc quá tháng ngày êm ả trôi xa
Tiếc tiếng sóng vỗ ru hồn thức giả
Tiếc con đường bóng ngã
Rợp dáng thư sinh...

Nghĩ mà đau
Bình minh gần kề sao nghe vời vợi
Trên gác vắng mình tôi đứng đợi
Chờ mặt trời sưởi ấm một hoài mong...
Võ Tánh!
Nha Trang!
Biết đến bao giờ ...?!

                                                                             

Trải bao thăng trầm mình lại gặp nhau

Rất đổi thân thương như thời còn đi học

Oà vỡ niềm vui, quên trên đầu hai thứ tóc

Ký ức hiện về

Thời gian thắm thoát tựa thoi đưa

Xa mái trường xưa

Khắp bốn phương trời chim tung cánh

Thế sự đổi thay

Bạn bè chúng ta mỗi người mỗi cảnh

Mặc cảm đời giàu nghèo hay vinh nhục

Trong thanh thảnh tâm hồn

Mình vẫn nhớ mãi tuổi trăng tròn...


Cho tôi về lại ngày xưa ấy!
Để nhớ quê nghèo với nắng mưa
Mắc võng ru mình bên hiên vắng
Nhìn gió đẩy đưa mấy liếp dừa

Đem tôi trở lại thời thơ ấu
Nhắc nhớ, lời ru của Mẹ hiền
Phe phẩy quạt mo trời oi bức 
Cho con tròn giấc của tuổi thơ.


Đưa tôi về lại mùa thu nắng...
Thuở mới vào yêu…thật dại khờ

Ngồi chép thư tình thâu đêm vắng
Nghĩ lại ghép vần những lời thơ

Để tôi nhớ lại tình yêu cũ
Xem mình còn biết bởi vì đâu!
Hai đứa mỗi nơi  không từ biệt
Chưa kịp sang mùa …đã mưa ngâu.!

Trong tuổi học trò, chúng ta hầu như ai cũng đều thuộc bài hát “Trường Làng tôi” của nhạc sĩ Phạm Trọng (Phạm Trọng Cầu) sau đây:

Trường làng tôi cây xanh lá vây quanh
Muôn chim hót vang lên êm đềm
                 Lên trường tôi con đê bé xinh xinh                   
                 Len qua đám cây xanh nhẹ lướt.                                    Trường làng tôi hai gian lá đơn sơ                         Che trên miếng sân vuông mơ màng                   Trường làng tôi không giây phút tôi quên                     Dù cách xa muôn trùng người ơi…

Từ đó, lòng tôi nao nao nhớ về những ngôi trường với biết bao kỷ niệm tại Nha Trang…

Trường Nam Tiểu học Nha Trang

Khi gia đình thân phụ tôi về sống tại Nha Trang năm 1956, tôi đã học dở dang lớp Nhất trường Quang Trung Hà Nội nên thân phụ xin cho tôi vào học lớp Nhất H trường Nam Tiểu học (tôi nhớ thầy tôi tên là Nguyễn Địch Giỹ dạy lớp này) thường được gọi tắt là “Trường Nam”, nằm trên đường Hàn Thuyên. Tôi còn nhớ mãi là sân trường Nam thời ấy được tráng bằng đất sét có trộn lẫn với sỏi nhỏ. Mùa mưa, nhờ có sỏi cho nên sân trường không trơn lắm. Mùa nắng, nền đất rất cứng. Trong sân trường có hai loại cây chính là Bàng và Phượng, cây nào cũng thuộc loại cổ thụ, có lẽ đã được trồng từ bao nhiêu đời rồi. Cây to, cao lớn, tỏa bóng mát cho sân trường.

- Cây Bàng rất to và cao. Lá bàng là loại lá cây thật to và dày, khi còn trên cây thì có màu xanh lục đậm, lúc già thì chuyển sang màu vàng đậm rồi rụng xuống đất, phủ đầy sân trường. Ngoài công dụng làm “chất đốt” cho nhà nghèo, lá bàng còn thường được dùng làm miếng đệm để ngồi xuống đất cho khỏi dơ quần áo. Trái bàng to bằng cỡ hột trứng gà nhưng không tròn hẳn, khi chín thì chuyển sang màu vàng và rụng xuống, lớp “cơm” ngoài ăn rất thơm. Ăn hết lớp cơm ngoài thì đụng phải một lớp vỏ rất cứng có cạnh và hai đầu rất sắc. Để khô đến một mức nào đó, đập lớp vỏ này ra, bên trong ruột lại là một loại “hạt dẻ”, ăn rất bùi giống như hạnh nhân.

Cây Phượng cũng rất to và cao, nhưng lá phượng thì nhỏ, chỉ cỡ lớn hơn lá me. Lá phượng chẳng có công dụng gì ngoài việc tạo “việc làm” cho học sinh thực tập “vệ sinh trường lớp”. Nhưng phượng có hoa màu đỏ, một màu đỏ tươi thắm tuyệt vời, một màu đỏ trẻ trung vui vẻ, tượng trưng xứng đáng cho tuổi học trò, cho lứa tuổi vừa lớn, lứa tuổi “ô mai”. Khi hoa phượng già đi, màu đỏ có hơi sẫm hơn, cánh hoa trở nên mỏng manh, một cơn gió nhẹ thổi qua có thể làm các cánh hoa rơi lả tả, giống như xác pháo đốt vào ngày Tết hay ngày cưới. Phượng lại còn có trái, trái phượng có hình cánh cung, dài chừng hai, ba tấc; khi già, bóc ra, bên trong có nhiều hột nằm xếp hàng theo hình cánh cung, ăn có vị chát chát, bùi bùi, ngọt ngọt.

Vì hoa này trông giống đuôi chim phượng hoàng, nên người ta gọi là hoa cây “Phượng Vĩ” (vĩ là đuôi), sau gọi gọn lại là hoa Phượng, cây này có nguồn gốc ở đảo Madagascar, thuộc đia Pháp tại Châu Phi, nên Pháp đã mang giống cây này sang trồng ờ Việt Nam, đề loài hoa này gắn bó với cuộc đời học trò với biết bao vui buồn lẫn lộn. Nhiều người nhầm lẫn hoa phượng và hoa Điệp, hoa cũng tương tự hoa phượng, nhưng cây điệp nhỏ hơn và vì hoa điệp nhìn giống con bướm nên được gọi là hoa “Hồ Điệp” (con bướm), sau gọi gọn lại là hoa điệp.

Phượng cũng còn có nhiệm vụ vô hình nhưng rất là thân thiết với học trò, nhiệm vụ của một cái đồng hồ báo tin mùa hè đã về. Ai đã từng đi học mà chẳng mong…Hè về! Tuy đang bù đầu vì thi cử, nhất là thi đệ nhị lục cá nguyệt hoặc thi các cấp bằng tiểu và trung học, thoạt nhìn thấy màu hoa phượng nở là người cứ rạo rực, nôn nao hẳn lên. Bận rộn hơn, nhưng nhanh nhẹn hơn, vui vẻ hơn…Bên cạnh các bài thi là những tập “lưu bút ngày xanh” chuyền tay nhau, viết cho nhau…Rộn ràng, náo nhiệt…Rồi ngày chia tay về nghỉ hè đến, hoa phượng nở đỏ rực sân trường.

Cuối năm học ở trường Nam, tôi được lãnh phần thưởng danh dự là một cuốn “Việt Nam Tân Từ điển” của Thanh Nghị to tướng (và một vài cuốn sách nữa), mà cho tới ngày hôm nay, tôi vẫn còn giữ được kỳ niệm đó, dù giấy cuốn Từ điển đã biến thành màu vàng ố, nhiều trang sách bị rách tơi tả cùng năm tháng từ năm 1956 tới nay…

Trường Trung học Công lập Võ Tánh

Rồi sau đó, tôi thi đậu đệ thất và được vào học trường Trung học Võ Tánh, đây là một ngôi trường lớn thứ hai ở Miền Trung, chỉ đứng sau trường Quốc học Huế, hơn nữa, vì là một trường có lớp đệ Nhất nên học sinh sẽ được theo học suốt từ đệ Thất đến đệ Nhất (sau khi thi đậu bằng Tú tài I ), nên cũng là một niềm hãnh diện lớn lao cho chính bản thân mình và cũng là niềm vui cho gia đình. Ngôi trường này nằm trên con đường Bá đa Lộc, cũng có hàng cây Bàng xanh lá xum xuệ phía trước mặt trường và vài cây Phượng hoa đỏ thắm rải rác trong sân trường, rợp bóng mát cho học sinh trong những ngày nắng chói, nhưng so với trường Nam trước kia thì trường Võ Tánh ít cây bàng và phượng hơn nhiều. Dưới xa một chút là trường Pháp và tận cùng là khoảng trời của biển cả.

Lúc đó, ngôi trường đang xây dựng mới được nửa dãy lầu 2 tầng ở mặt trước. Thêm một nhà vệ sinh nối liền dãy trước với khu phòng học phía sau gồm 6 phòng. Đất sân trường còn rộng rãi với một sân đá bóng đầy cát trắng. Con đường trước mặt trường rợp bóng cây xanh. Trường tôi học sinh nam nữ còn học chung với nhau vì chưa có trường Nữ Trung học. Giáo sư trong trường thì Thầy nhiều hơn Cô. Đa số Thầy đi dạy bằng xe đạp, có chen vài chiếc Mobylette. Dọc theo con đường bên trái trường (nay là đường Hoàng hoa Thám) chỉ có một dãy nhà bằng fibro xi măng dành cho thầy Tổng Giám thị. Cuối dãy nhà này là một biệt thự nhỏ của thầy Hiệu trưởng. Chỉ bấy nhiêu thôi mà sao đầm ấm quá, dễ thương quá. Nam nữ học sinh đều mặc đồng phục, hiền hòa.

Tôi bùi ngùi nhớ lại tên của những vị như, thầy Lê khắc Nguyện, Lê nguyên Diệm (Hiệu trưởng), thầy Võ thành Điểm, Cao xuân Huy (Tổng Giám thị), thầy Nguyễn khoa Phước (Giám học, có vợ day Sử địa), thầy Bửu Thả dạy toán hiền lành và nhỏ nhẹ, làm giáo sư Hướng dẫn lớp tôi, đệ Tam B4 (sau diễm phúc lấy được cô nữ sinh hoa khôi Cẩm Vân, chị của Kim Anh ), thầy Nguyễn đức Nhơn (dạy Việt văn), thầy Nguyễn Tri Phương (dạy Toán), Trần thanh Lý (dạy Lý Hóa), thầy Đỗ quang Phiệt (dạy Anh văn), thầy Trần Đức Long (Luật sư, dạy Công dân giáo dục).v.v…Vài giáo sư nổi tiếng trong trường như :

- Thầy Nguyễn Vỹ (sinh 1901) vừa làm lễ Thượng thọ Bách niên vào năm 2002, tốt nghiệp trường Cao đằng Sư phạm Đông Dương, về dạy học ờ Qui Nhơn, Huế, Quảng Ngãi, về làm hiệu trưởng trường Võ Tánh (1957-58) sau về làm Thanh tra Trung học (1959-60) rồi về hưu. Xin đừng ngộ nhận với nhà thơ, nhà báo Nguyễn Vỹ (1912-1971) ở Sài Gòn nổi tiếng với báo Dân Ta và tạp chí Phổ Thông.

- Thầy Thạch Trung Giả (tên thật là Trần văn Long) dạy môn Việt văn. Nhiều người còn nhớ, một hôm đang trong giờ thầy giảng đoạn Kiều với Từ Hải…thì bất chợt một nữ sinh ngó lên bàn hàng trên, lơ đãng…Thầy Giả ngưng giảng, nhìn về phía chị và giân dữ mắng: - chị M. sao chị ngu xuẩn thế? Làm ồn trong lúc tôi đang giảng bài, chị biên cho tôi 100 lần “tôi không ngu xuẩn làm ồn trong giờ giảng bài”…Tuần sau thầy gọi chị ấy lên trả bài và chị nộp bài phạt, thầy nhận và hỏi chị: - Tôi giận mắng chị có buồn không? - Thưa thầy không ạ !!! Nhớ đến những lúc thầy bị ốm, sổ mũi, thầy không có khăn tay nên thầy lấy giấy học trò vò lại mà hỉ. Nghĩ lại hình ảnh đó mà thấy thương thầy. Các bạn ai đã học với thầy chắc cũng có một lần chứng kiến cảnh đó. Khi dạy Việt văn, thầy Thạch trung Giả tỏa ra phong thái của một nghệ sĩ, luôn mặc quần áo và mũ cối trắng nhưng đã ngả vàng, răng có dấu nhựa thuốc lào, trà đặc. Khi thầy giảng bài, cả lớp im phăng phắc như không chỉ nghe lời thầy nói mà còn thấy được hình ảnh mà thầy muốn đề cập…Học sinh sớm bắt gặp cái hay, cái đẹp của văn thơ, thầm cám ơn thầy.

Trong khi phê điểm Việt văn cho học sinh, dường như thầy cho theo cảm tính và tùy hứng. Cùng một sách luận đề, bốn năm đứa chúng tôi chép lại đem nộp và thầy đã phê điểm khác nhau rất xa. Thật là chán khi nhìn thấy hình dáng rất “Phở” của thầy. Thầy được học sinh tặng biệt danh “Phở” vì quần áo thầy trông rất luộm thuộm và bạc màu. Học Văn với thầy, học sinh phải đọc thêm sách báo mới đủ trình độ tiếp thu bài giảng của thầy, phải biết đặt câu hỏi mới lạ để thầy giải thích hầu mở rộng kiến thức. Trong cổ văn Việt Nam, các tác giả hầu hết đều học rộng, hiểu biết sâu sắc về Phật, Khổng, Lão nên các tác phẩm cũng bàng bạc tư tưởng cao siêu đó. Và đấy cũng là sở trường của thầy Thạch Trung Giả. Đôi lúc nhìn thầy giảng bài với đôi mắt lim dim, xuất thần như một đạo sĩ. Với đôi mắt và tâm hồn thoát tục đó, tôi nghĩ chắc rằng thầy không nhớ nổi 10 đứa học trò trong hàng ngàn đứa đã học với thầy. Nữ sinh Nguyễn thị Hoàng đã từng làm một bài luận văn dài 20 trang giấy lớn, được thầy chấm 20/20 điểm và đem vào đọc và bình cho cả lớp nghe.

Vào một buổi chiều cuối năm, những buổi như vậy học sinh thường rất lười vì thích đi chợ Tết Nha Trang (thường họp từ bùng binh đầu đường Độc Lập, tiếp nối đường Phan Bội Châu đến Chợ Đầm), lớp học vẫn đông đủ học sinh trong giờ Việt văn của thầy. Thầy diện một bộ quần áo mới, veston bên ngoài, trông thầy ra dáng một trung niên đạo sĩ lắm. Thầy say sưa giảng về Tản Đà với giấc mộng lớn , giấc mộng con. Cả lớp say mê theo dõi, lớp học im phăng phắc. Học sinh như những tín đồ ngoan đạo đang uống từng lời của thầy và thầy đang xuất thần như một thiền sư hay đạo sĩ trong lời giảng trầm trầm. Bỗng một tiếng “Phở” thật to rao lên ngoài đường vang dội vào lớp học, cả lớp bật cười. Thầy tỉnh mộng cũng cười theo. Tiếng cười chưa dứt lời, thầy chêm thêm một câu:

- Tôi như thế này mà “Phở” à! Các anh cứ !!!...

Rồi thầy lại cười, cười chảy nước mắt. Từ đó mọi người biết rằng biệt danh Phở đã đến tai thầy và thầy đã thay đổi y phục tươm tất hơn trước…

Nhiều người cho biết là cứ đến mùa hè là thầy Giả lên chùa Vào Hạ (một khóa học của các tu sĩ), tham thiền với các vị sư và trong thời gian sau năm 1975, thầy Giả thường hay lên chùa và thầy đã mất tại chùa., vì hoàn cảnh khó khăn, chùa quá nghèo nên không có tiền mua hòm nên các vị sư chỉ còn cách quấn chiếu và tìm ván cũ đóng lại chôn thầy…

Học sinh trường Võ Tánh Nha Trang cảm thương thầy quá..Thầy ơi! Thầy ơi!

- Thầy Bửu Cân: Môn chính của thầy là Vạn vật, nhưng thầy có dạy cả Sử Địa và Công dân giáo dục nữa. Học trò của thầy thuộc lớp tiền bối là cỡ các học giả Hoàng xuân Hãn, Thái văn Kiểm, thẩm phán Trần thúc Linh…Chúng tôi kính thầy như cha! Mà có lẽ thầy cũng coi chúng tôi như con! Lúc còn học thầy, chúng tôi rất sợ thầy, nhưng vì tuổi còn nhỏ nên nhiều lúc chúng tôi đã…rất phiền thầy! Chúng tôi thấy thầy nghiêm khắc quá, khó tính quá, gay gắt quá, đôi lúc gàn dở và tàn nhẫn quá…Cùng với tuổi đời, cùng với kinh nghiệm thực tế, chúng tôi thất là đã hiểu được thầy.


Tiểu sử sơ lược của thầy Bửu Cân:

Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm năm 1923, thầy là sinh viên trẻ nhất (21 tuổi) cùa khóa Sư phạm đầu tiên mở tại Hà Nội

Giáo sư Toán Lý Hóa College Vinh, trung học Khải Định. Đổi ra Thanh Hóa, dạy trường Đào duy Từ, sau về trường Võ Tánh Nha Trang từ năm 1952 cho đến ngày hưu trí.

Tận tụy với thiên chức nhà giáo, thầy thành lập và làm hiệu trưởng trường trung học tư thục Đăng Khoa Nha Trang trong một thời gian ngắn. Ngoài một số sách giáo khoa, thầy đã viết: - Hán Việt Thành ngữ - Lễ Mệnh Tiếu – Những người hay – Vi Trùng học – Ông Pasteur, nhà bác học…

Theo trí nhớ của riêng tôi và một vài bạn khác thì thầy có nhiều kỷ niệm như sau:

- Thầy vẽ hình Vạn vật và viết chữ rất đẹp. Đứng trên bảng đen trong lớp, thầy quay mặt nhìn học trò, chỉ hơi nghiêng người một chút mà tay phải thầy cầm phấn vẽ và viết lên bảng rất đẹp, rất đều và rất ngay hàng thẳng lối.

- Thầy hay nói chuyện đời hay kể chuyện vui để cho không khí học đỡ buồn ngủ. Một hôm thầy hỏi “Tối nay có bài phải học mà lại có một phim xi nê rất hay còn chiếu bữa chót, nên ở nhà học bài hay nên đi coi xi nê?”. Các anh nghĩ coi, ở cái tuổi học trò ngày đó, có đứa nào dám trả lời là không ở nhà học bài Nhiều đứa trong đám chúng tôi nhao nhao lên “Thưa thầy con ở nhà học bài” cứ làm như mình ngoan lắm. Thầy mỉm cười, phán ngay “Tụi bay ngu lắm, bài thì lúc nào học chả được, phim hay biết đến bao giờ mới chiếu lại”.

- Một hôm thi lục cá nguyệt, lúc bước vào lớp thầy đưa tay kéo cánh cửa lớp học nằm ở vị trí xéo cỡ 45 độ, mà chúng tôi không đứa nào để ý. Thầy mang theo một tờ báo hàng ngày. Sau khi ra đề thi xong, thầy ngồi tại bàn, lúc thì quay ghế nhìn ra cửa lớp, lúc thì mở rộng tờ báo để đọc. Tuyệt nhiên thầy không hề nhìn xuống đám học trò. Một lúc, thầy bước xuống, tới ngay chỗ một em đang giở sách dấu dưới bàn để “quay cóp”. Thầy lôi cuốn sách ra, để ngay lên bàn và bảo người học trò “Tau cho mi để trên bàn mà chép. Tau không muốn mi ngày sau trở thành một thằng ăn cắp”. Mãi sau này chúng tôi mới khám phá ra là trên tờ báo thầy giả vờ đọc, thầy đã khoét sẵn một lỗ nhỏ, qua đó thầy nhìn xuống đám học trò. Hoặc khi nhìn ra cửa, cánh cửa kính ở vị trí 45 độ phản chiếu toàn bộ đám học trò trong lớp học vào con mắt của thầy.

- Thầy thường giảng cho họ trò nghe về “cái học trong trường” và “cái sống ngoài đời” khác nhau thế nào: Thầy bảo “Tụi bây muốn được nhiều điểm, tao cho nhiều. Tụi bây ưng phê học bạ tốt, tao phê cho. Nhưng sau này ra ngoài đời những thứ này sẽ không giúp được gì cho tụi bay đâu. Tụi bây muốn thành công, phải sống “không tranh giành, không nịnh bợ, không gian xảo, không lòn cúi, không lừa đảo, phải sống cho ngay thẳng, hiên ngang, nỗ lực…”.

- Trong suốt hơn nửa thế kỷ qua, tôi luôn luôn nhớ các buổi học với thầy, nó đã hướng tôi vào cuộc sống đạo đức và sống vui, coi cuộc đời như một trò chơi lớn chứ không như giấc mộng. Thầy đối xử bình đẳng với mọi học trò, thầy yêu thương tất cả. Thật là một lối dạy cao thượng, tôn trong con người, giống phương pháp dạy của Đức Phật “Mỗi người hãy tự thắp đuốc mà đi”. Chúng tôi xin tri ân Thầy Bửu Cân đã dạy cho bài học chỉ gồm có 8 chữ ngắn gọn nhưng thật nhiều ngụ ý.

Nha Trang, đó là thành phố của tình yêu và chia biệt, thành phố của những mối tình hè, của những con sóng vô tình, những dấu chân bị nước cuốn đi, không để lại một vết tích nào, như thể trước đó nó không tồn tại…

Khánh Hòa - Nha Trang là nơi quy tụ nhiều hào kiệt, riêng ở lãnh vực Văn học nghệ thuật đã xuất hiện nhiều nhân tài xuất sắc:

Trường Võ Tánh của tôi xuất thân nhiều nhân tài về “toán học và văn học”, như:

- Thầy Nguyễn Xuân Vinh (sinh năm 1930): dạy Toán đệ Nhất, lần đầu tiên học sinh có sách “Toán lớp Đệ Nhất B” xừ dụng, thầy rất giỏi môn Toán cao cấp, nên về sau thầy sang Hoa Kỳ vào làm trong cơ quan Hàng không và Vũ trụ NASA, đem lại niềm vinh dự cho con người Việt Nam.

Thầy là giáo sư danh dự ngành kỹ thuật Không gian đại học Michigan, là nhà toán học, nhà khoa học Không gian xuất sắc, Tiến sĩ Toán học đại học Sorbonne, Paris. Năm 1984, thầy là người Mỹ thứ ba và là người châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian của Pháp. . Thầy viết sách “Gương danh tướng”, “Theo Ánh tinh cầu” và nhất là sách “Đời Phi công” với bút danh là Toàn Phong được nhiều học sinh thích thú tìm đọc.

- Thầy Cung Giũ Nguyên: dạy Pháp văn ở trường Võ Tánh, sau làm hiệu trưởng trường bán công Lê Quý Đôn Nha Trang, đã viết nhiều tác phầm nổi tiếng bằng Pháp vặn. Hiện tại Hoa Kỳ , nhóm cựu học sinh trường Võ Tánh và Nữ Trung học mới thành lập Trung tâm Cung giũ Nguyên (bao gồm Quỹ Học bổng giúp học sinh nghèo tỉnh Khánh Hòa – Nha Trang).

- Nguyễn thị Hoàng, nữ sinh năm đệ Tam (1956-57) đã nổi tiếng khắp trường Võ Tánh với một bài luận văn dài 20 trang giấy lớn, được đem vào nhiều lớp để đọc cho học sinh nghe và nhất là bài thơ “Chi lạ rứa”. Chị là người có nhiều tai tiếng với một vị thầy cao niên, sau chị cũng dạy học và viết tiểu thuyết “Vòng tay Học trò” – gây xôn xao lớn cho văn nghệ miền Nam, mà nhân vật Minh , thực ra là Mai tiến Thành chỉ học lớp đệ Tam (không phải đệ Nhất như trong sách) khá đẹp trai kiểu “Playboy”, con nhà giàu ở Ban mê Thuột sau này về Sài Gòn anh ta viết cuốn sách “Tiếng hát Học trò” để trả lời cuốn Vòng tay Học trò. Chị Hoàng hồi đó, người nhỏ, dân Huế rặt, thân hình “bốc lửa”, nhan sắc trung bình, rất lãng mạn, có tài văn nghệ, hay mặc áo dài trắng như nữ sinh và khoác áo lông trắng. Sau về dạy ở trường Trần hưng Đạo Đà Lạt, chị Hoàng có dẫn học sinh đệ Nhất đi tham quan, khi đến nơi, chị nhảy xuống xe GMC, bị gãy một chiếc guốc, chị vứt luôn chiếc kia, và đi chân trần nên học sinh gọi chị bằng “Bà Hoàng đi chân không” thì chị rất thích. Vì lúc đó ở Đà Lạt đương chiếu cuốn phim “Nữ Bá tước chân không” (La Comtesse aux pieds nus) dường như do Ava Garner đóng. Chị thích người ta gọi bằng “Bà Hoàng” hơn là “Cô Hoàng” mà nhiều người cho rằng chị khoái liên hệ với Hoàng tộc, nên sau này lấy ông Bửu Sum (hoàng phái) – giáo sư triết Đà Lạt, nhưng lại trốn lính nên chị rất vất vả khi về Sài Gòn viết văn, bỏ nghề dạy học.

Ngoài ra, các nghệ sĩ sau đây ngày xưa cũng là học sinh trường trung học Võ Tánh:

- Dương nghiễm Mậu, tức Phi ích Nghiễm là một nhà văn rất tài hoa…

- Trịnh Cung (tên thật là Nguyễn văn Liễu) là họa sĩ khá nổi tiếng, bạn thân của nhạc sĩ Trinh công Sơn.

- Nhà văn Nguyễn Mộng Giác

- Nhà thơ Hoàng Hương Trang

- Nhà thơ Cao Hoàng Nhân (Bùi Cao Hoàng)…

Thế là, khi lên trung học, cuộc đời tôi cùng tuổi học trò gắn liền với trường trung học Võ Tánh Nha Trang. Tôi học hết trung học tại ngôi trường này. Cũng nằm trên đường Bá đa Lộc nơi trường tôi tọa lạc, về hướng sát bờ biển là trường College Fracaise de Nhatrang – nơi mà vài người em của tôi theo học, thời đó học sinh của hai trường Võ Tánh và trường College thường hay gây sự với nhau ỏm tỏi. Và sau lưng trường Pháp, xa xa một chút là trường trung học tư thục Bá Ninh – một trường Thiên Chúa khá nổi tiếng. Sau lưng trường tôi, xa xa là trường trung học bán công Lê Quý Đôn, gần đó là trường Nữ Trung học Nha Trang (sau đổi là trường Huyền Trân, sau năm 1975 trường Huyền Trân đổi lại là trường Thái Nguyên cùng thời với trường Võ Tánh đổi tên là trường Lý Tự Trọng).

Trong thời gian là cậu học sinh của trường Võ Tánh, nhà trường đã tổ chức cho học sinh các lớp chúng tôi đi cắm trại tại: - Khu rừng nhỏ nằm gần trường Lasan và Hòn Chồng nổi tiếng – Suối Ba Hồ với cảnh trí rất hoang dã, thơ mộng, ờ Ninh Hòa và – Bờ biển Đại Lãnh , cách Nha Trang 80km nằm giữa đèo Rọ Tượng và đèo Cả, có bờ biển khá rộng, dài với bãi cát trắng mịn và ngay từ xa xưa, phong cảnh Đại Lãnh đã được vua Minh Mạng cho thợ chạm hình vào một trong Cửu Đỉnh trang trí trước sân Thế Miếu và có tên trong Từ điển quốc gia do triều Tự Đức biên soạn.

Những kỷ niệm trên sẽ hằn ghi mãi mãi trong suốt cuộc đời của chính tôi về trường trung học Võ Tánh mến yêu của tôi - với thành phố quê hương cát trắng qua bài hát “Nha Trang” của nhạc sĩ Minh Kỳ:

- Nha Trang là miền quê hương cát trắng
Có những đêm nghe vọng lại, ầm ầm tiếng sóng xa đưa.
- Nha Trang cánh đồng bao la bát ngát
Hương quê dân lên ngào ngạt, hòa cùng sức sống yên vui…
- Còn đâu những chiều vui xưa
Còn đâu những chiều say sưa
Ngồi nơi biển buồn trông ra khơi mênh mông.
-Còn đâu Tháp Bà êm mơ
Còn đâu Đá Chồng bơ vơ
Còn đâu bến Cầu Đá nên thơ…


KỸ NIỆM NGÀY 29 THÁNG 3 NĂM 2025

 

TINH TÚ MỚI


Ngày tháng ba năm ấy

Thoáng nhớ về xa xưa

Bé gái chào đời khóc

Nhịp sống mới dâng trào


Ngày sinh em vừa ý

Đất trời ở hai nơi

Nụ tâm xuân nẩy lộc

Chớm nở một tinh khôi


Bầu trời ngự sao mới

Đất dành chỗ cho em

Trời Đất nơi dung chứa

Cha mẹ dưỡng dục nên.


MỘT THỜI...ÁO TRẮNG


Áo trắng còn bay nhiều ước hẹn

Giấc mơ đời ngọt ví bâng khuâng

Nắm tay dài mãi niềm lưu luyến

Ngắn chậm bước chân đến ngại ngần


MỘT THỜI..... GOM VỀ..


Một thời em đến trường

Một thời áo trắng bay

Một thời khua chân bước

Một thời má hây hây..


Tuổi nào nhiều mơ mộng?

Tuổi nào lắm dỗi hờn?

Tuổi nào mang nỗi nhớ?

Tuổi nào sẽ cô đơn???


Tìm lại chút hương nồng

Tìm lại tuổi thơ ngây

Tìm lại trong ký ức

Tìm lại hương nồng say..


Bao giờ về thăm lại

Bao giờ thấy đồi nương

Bao giờ thăm phố Núi

Bao giờ hết nhớ thương..


Gom về kỷ niệm còn

Gom về những vấn vương

Gom về bao nỗi nhớ

Gom về từng con đường..


MỘT THỜI lắm mộng mơ

TUỔI NÀO hết đợi chờ

TÌM LẠI hương nồng cũ

BAO GIỜ vơi nỗi nhớ

GOM VỀ mối tình thơ..


CON ĐƯỜNG


Con đường em vẫn, đi xe đạp

Mùa nở hoa mai đã ghé rồi,

Con đường chưa biết thời thơ mộng

Nằm đợi chúng ta đến hẹn hò.!


Con đường tôi thuộc, từng viên sỏi

Chạm rất vô tình dưới bánh xe

Mỗi tối đêm về tôi tách phố

Ghé thăm buổi tối lúc lên đèn


Con đường đá trải thời niên thiếu

Xuân tết hoa rừng vướng tóc em

Trải qua mấy bận còn lưu luyến

Cầu chúc hai ta toại ước nguyền


Con đường mới đó mà lâu lắm

Thay đổi không còn vết tích xưa

Con đường lắm bận cùng xe đạp

Em có về thăm chỉ một lần.


EM VỀ BÊN ANH


Anh ru

em giấc xuân nồng

Mà bao năm tháng

sống cùng bên nhau


Tay em

đón nụ xuân này

Hương xưa còn đó

những ngày tháng qua


Em về

xóm lưới dốc cao

Long lanh sương phủ

nhạt nhòa nắng xuân


Em về

một sớm phù vân

Tinh khôi áo lụa

bâng khuâng đợi chờ


Em về

Anh có làm thơ

Để em gối mộng

đêm mơ chuyện mình